Trong bài vè chợ Thủ ngày xưa có đoạn:
“Nhìn bốn cây cột
Có bốn con rồng
Chữ đề ở trong
Là Miễu Tử Trận
Có đường đắp ngắn
Chạy thẳng Thành Quan
Có đường đắp ngang
Đi qua đầu dốc…” (1)
Ngôi Miễu Tử Trận như mô tả nằm trên một khoảng đất rộng ở đầu đường Bạch Đằng; ngay tại ngã ba, quẹo phải lên trường Sĩ Quan Công Binh, quẹo trái ngang qua Thành Quan, xưa gọi thành Săn Đá (soldat), là hai di tích lịch sử của tỉnh từ thời Tây còn lại. Miễu hình khối chữ nhật, xa trông như một cái tháp cao; tọa lạc trên khu đất rộng 90m2, nơi này trước đây là trung tâm ấp Chánh, xã Chánh Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Bình Dương. Ở bên đường lên trường Công Binh vào giữa thập niên 60 thế kỷ trước có một ngôi chợ nhỏ kiểu tiền chế do người New Zealand xây dựng, dân địa phương gọi là chợ Tân Tây Lan. Gần miễu có vài chiếc xe ngựa đậu lưa thưa để chờ đưa đón khách.
Bọc xung quanh miễu là một hàng rào thấp bằng cọc sắt, hình vòng tròn. Nền đắp khá cao, lát gạch bông. Ở bốn mặt làm giống như nhau, đều có lối đi lên bực tam cấp, hai bên có lan can chạm hình rồng uốn khúc hướng mặt ra ngoài, nét điêu khắc đơn giản chứ không tỉ mỉ giống hình rồng thường thấy trên tranh vẻ. Trước cửa có tám cây cột tròn bằng xi măng chạm hình rồng, hai bên cạnh vách tường lại có khắc câu đối bằng chữ Hán chạy dọc từ trên xuống. Trên bốn bức tường bên trong có hình bốn con vật linh theo truyền thuyết Trung Hoa là long, lân, quy, phụng. Nóc lợp bằng ngói ống, gần mái có chạm ba chữ “Miếu Tử Trận”. Chung quanh có nhiều cây cao già cỗi tỏa bóng mát, tạo cho không khí nơi đây vẻ trang nghiêm và tĩnh lặng.
Chánh giữa miễu có một tấm bia cao 3m, rộng 1m5. Bia có hai mặt: một, dùng để khắc tên các chiến sĩ người Việt ở Thủ Dầu Một; mặt bên kia ghi tên những người Pháp trước ở tỉnh này, sau cũng hy sinh trong Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918).
Thời đó, để đủ lực lượng đương đầu với Đức, vào tháng 11 năm 1915 Pháp đã ban hành lệnh tuyển người bản xứ tại Đông Dương. Sang tháng Giêng năm sau, triều đình Huế lại có dụ ban thưởng 80 đồng bạc Đông Dương cho những ai nhập ngũ. Đến năm 1918, khi chiến tranh kết thúc thì đã có tổng cộng 48.922 người dân Đông Dương làm lính (30.425 người tại Âu châu hoặc bắc Phi), và làm công nhân (ouvriers non spécialsés, viết tắt là ONS, xưa gọi là lính thợ, hay công binh). Do bị xem là có thể hình và thể lực nhỏ thó không thich hợp để cầm súng như các chiến binh Phi châu giống như người Senegal, Algeria...hầu hết người Việt Nam bị đưa vào làm những công việc nặng nhọc vất vả như làm công nhân cầu đường, xây đắp chiến lũy hay xưởng chế tạo đạn dược. Khi tàn cuộc chiến, kể cả lính và thợ, có 1.548 người, trong số này nhiều người là dân Thủ Dầu Một, đã hy sinh cho nước Pháp. Theo các vị bô lão xưa còn nhớ thì người Pháp cho xây cất ngôi miễu này vào khoảng năm 1922, để tỏ lòng tri ân những người Việt và số người Pháp ở địa phương đã chết vì đất nước của họ.
Hàng năm, vào ngày lễ Các Thánh 1-11, người Pháp tổ chức trọng thể lễ tưởng niệm chiến sĩ trận vong có sự tham dự của viên quan chủ tỉnh (Chef de province, trước năm 1899 gọi là Chánh tham biện) người Pháp và 12 Hương chức hội tề địa phương. Quân nhạc sắp thành hai hàng hòa tấu bản nhạc truy hồn tử sĩ và kết thúc bằng nghi thức đặt vòng hoa do đích thân chủ tỉnh hành lễ.
Năm 1964, ngôi miễu được sửa sang lại, tên tuổi các chiến sĩ Việt-Pháp trên tấm bia bị xóa đi; ba chữ “Miễu Tử Trận” sửa lại thành “Đài Chiến Sĩ”. Từ đó hàng năm, cũng ngày 1-11, lúc bấy giờ gọi là ngày Quốc Khánh, chính quyền cũng tổ chức lễ truy điệu, nhưng cho vong hồn những chiến sĩ tử trận trong cuộc chiến tranh đương thời.
Trước miễu, cũng trong giai đọan này, có đặt một cái thùng, bên trong để một cái vô tuyến truyền hình (tivi). Ban ngày khóa lại, chiều tối thì mở ra cho dân xung quanh đến coi. Hồi đó truyền hình còn rất hiếm, cả xóm chỉ vài nhà khá giả mới có, để được vô nhà họ lại rất khó khăn nếu không phải là bà con quen biết. Vì vậy có một cái truyền hình công cộng cho coi tự do thì dân chúng rất thích nên ban đêm, nơi đây trở thành tụ điểm giải trí tập trung khá đông người. Xung quanh miễu mát mẻ, lại rộng rãi, ban ngày trẻ con trong xóm thường kéo đến chơi đùa uyên náo, cảnh tươi vui, hiền hòa và cũng khá nên thơ. Mặc dù thỉnh thoảng bọn trẻ con lại giật mình vì tiếng đại bác từ trường Công Binh gần đó vọng lại.
Sau 1975 được vài năm, ngôi miễu bị đập bỏ, nhưng vẫn còn chừa lại phần nền có bốn lối đi với tám con rồng chạm hai bên như đang bò xuống tìm lối thoát. Vài năm sau nữa thì phần nền này cũng bị phá bỏ hoàn toàn. Nay nơi đó là một công viên, không còn dấu vết chi của hình bóng cũ, những người mới đến Bình Dương những năm về sau này ngơ ngác khi có ai nhắc đến tên ngôi Miễu Tử Trận. Với những người sinh sống lâu năm ở thị xả Thủ Dầu Một thì trái lại, Miễu Tử Trận là một hình ảnh khá thân quen. Có lần, nhớ đến ngôi miễu nay không còn, người viết cảm tác mấy câu thơ:
Miếu cổ vươn cao ở cuối đường
Cây xanh toả bóng thoảng trầm hương
Bao hồn tử sĩ về nương náu
Bốn phương thân xác vùi sa trường
Miếu cổ bây giờ là công viên
Rồng vút bay rồi đất hết thiêng
Sống phải xa quê chết xa mộ
Nay biết tìm đâu một cõi riêng?
Mặc dù đã bị đổi tên từ năm 1964, nhưng dân địa phương vẫn gọi theo tên cũ là “Miễu Tử Trận” mà không biết đến tên mới của nó. Có phải vì vậy chăng mà đến ngày 20-08-1973, Đại tá tỉnh trưởng là ông Nguyễn Văn Của đã cho làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng một Đài Tử Sĩ mới tại ngả ba gần trường trung học Võ Minh Đức ở Phú Thọ hiện nay. Đồ án xây cất do Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam và Nguyễn Văn Minh thiết kế. Đài có hình một bát nhang đường kính 4m55, với ba cây nhang cao 15m75 tỏa hình trên nền trời. Đây là biểu tượng của lòng biết ơn đối với những người đã nằm xuống, vừa có thể hiểu là dấu hiệu của tam tài (thiên, địa, nhân), hay ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa; hoặc ba đức tính cần có của người quân tử là nhân, trí, dũng…tùy theo ý thích hay sự suy diễn của mỗi người. Ngã ba này từ đó được dân chúng gọi là ngã ba Cây Nhang. Công trình được khánh thành vào ngày 02-11 năm 1973 và cũng chung số phận với Đài Tử Sĩ cũ, nó đã bị đập bỏ và san bằng sau 1975 không bao lâu.
Điều đáng nói thêm là có một ngôi miễu tương tự với Miễu Tử Trận, nhưng không phải ở Việt Nam mà nằm ở tận Paris, nước Pháp.Thời xưa, nó được gọi là Hoài Nam Nghĩa Sĩ Miếu.
Ngôi miễu này nằm ở khu vực vành đai Paris (đường 45bis, đại lộ Belle-Gabrielle, ở Nogent-sur-Marne), trong một vườn hoa rộng 4,5 mẫu, nơi được ví là buồng phổi của Paris (Le jardin tropical du Bois de Vincennes).
Vài tài liệu ở Việt Nam có đề cập đến công trình này:
_Trong bài “Hành cung Tây cống” của bác sĩ Dương Đình Hùng, đăng trên số báo xuân Tuổi Trẻ năm Kỷ Mão, 1999, trang 31, có những đoạn như sau:
“Trong thời kỳ lệ thuộc chắc không có ông vua nào tỏ lòng “trung hiếu” bằng vua Khải Định. Để được Tây tin mình hơn và thương đứa con duy nhất của mình…như con nuôi của Tây, năm 1922 Đông Cung Thái Tử Bảo Đại được gửi đi Pháp để nhờ cha cố Tây uốn nắn, lo cho phần hồn. Độc đáo hơn, để tham dự hội chợ các nước thuộc địa tại thành phố cảng Marselle, miền Nam nước Pháp cũng vào năm ấy, ông vua Khải Định có ý tưởng độc đáo, muốn chơi trội hơn các anh bạn châu Phi, Trung Đông, Hải Đảo…ông cho chở nguyên cả một hành cung cùng theo với mình, trước là tham dự sau là “Cống Tây”
“Đó là một hành cung lộng lẫy, một kiến trúc lớn được nghiên cứu và thực hiện cực kỳ tỉ mỉ hơn bất cứ kiến trúc cung điện nào ở Huế, một cung điện lớn bằng nhà hát lớn Sài Gòn về bề ngang cũng như chiều dọc, tưởng như cao gấp cả hai lần những kiến trúc cùng loại trong nội thành Huế. Muốn có được một công trình như vậy chắc chắn vua Khải Định đã tuyển chọn những nghệ nhân xuất sắc nhất cả nước từ mấy năm trước ngày đêm đục đẽo chạm trổ. Gỗ quí thì khỏi nói rồi, phải đẹp và trường thọ với thời gian.
Tất cả công trình ấy được tháo rời, cùng với các nghệ nhân, cùng một êkíp thợ nề, thêm các tay khắc họa…xuống tàu đi Tây dự hội chợ các chư hầu đế quốc Pháp, khai mạc ngày 22-05-1922. Triển lãm xong, như dự định, vua Khải Định biếu hành cung cho Tây. Đương nhiên Tây thích lắm, khen sáng kiến của vua An Nam, phục trí thông minh và bàn tay khéo léo của nghệ nhân xứ Việt.
Một thời gian sau, tất cả “hành cung cống Tây” ấy được chuyển về dựng lại tại khu rừng Vincennes ở Paris.”
Thế nhưng những mô tả về ngôi hành cung chỉ là những gì tác giả được nghe nói lại, bởi khi ông đến nơi thì nó đã bị cháy rụi vài năm trước đó:
“Khi tôi đến đây thì hành cung đã thành tro bụi…
Hành cung cống Tây không còn nữa, chỉ còn chơ vơ mấy cổng tam quan dẫn lối vào cung. Còn lại bức bình phong cô đơn buồn ngó ngôi chùa gần đó, ngôi chùa có ông Phật lai Tây!”
Không lâu sau bài viết này, có bài phản hồi đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay của tác giả Nguyễn Đình Đầu (?), đưa ra nhiều ý kiến khác, tiếc rằng nay chúng tôi không có trong tay để đối chiếu.
_Một tài liệu khác ở địa phương, lại đưa ra những dữ kiện mới:
“Với lối kiến trúc độc đáo của chùa Hội Khánh đã làm cho người Pháp chú ý, nên vào năm 1920 nước Pháp có mở cuộc triển lãm hội chợ tại Marseille, người Pháp đã mang mô hình chùa Hội Khánh và những bộ tượng La Hán, Thập điện sang triển lãm và cũng trong dịp này Toàn quyền Đông Dương Pháp thỉnh cầu Hòa thượng Từ Văn sang làm chủ lễ cầu siêu cho những người đi lính thuê cho Pháp.” (2)
Ở đây có một điểm cần lưu ý, là vào năm 1920 Pháp không tổ chức kỳ triển lãm thuộc địa nào cả. Những cuộc triển lãm loại này bắt đầu từ năm 1866, đến lần cuối cùng là vào năm 1948. Trong khoảng thời gian này có một vài năm không tổ chức, và năm 1920 là một trong những lần cách khoảng đó. Hội chợ, hay cuộc Đấu Xảo tại Marseille như được đề cập trong đoạn văn trên đây, thực ra diễn ra vào năm 1922.
Theo sự tìm hiểu riêng của chúng tôi, căn cứ vào các tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, trong công viên vùng ngoại ô Paris có một ngôi đền nhưng không giống với những điều đã được hai tác giả trên nói đến:
Vào năm 1905, quan chủ tỉnh Thủ Dầu Một là Ernest Outrey đã ra lệnh làm cấp tốc một ngôi nhà bằng gỗ dựa theo kiểu thức của ngôi đình Bà Lụa, sau đó chuyên chở bằng tàu đem qua Pháp để tham dự cuộc triển lãm Colonial Exhibition ở Marseille tổ chức vào năm 1906.
Năm 1907, chính quyền Pháp lại đem ngôi nhà xưa của Annam này lên triển lãm tại vùng ngoại vi Paris (at the Jardin colonial of Nogent-sur-Marne).
(L’ancien temple du jardin tropical)
Đến năm 1917, ngôi nhà này được chọn làm ngôi đền tưởng niệm những người lính Đông Dương đã chết trong cuộc chiến tranh thế giới Đệ nhất (the Temple du Souvenir Indochinois).
Vào tháng giêng năm 1918, người thành lập hội “Đông Pháp kỷ niệm” (Le Souvernir Indochinois) cho biết mục tiêu của tổ chức là: “Thiết lập trên đất Pháp, và nếu có thể, ở Đông Dương, một hoặc nhiều ngôi chùa tưởng niệm, giống như một Pantheons Đông Dương, nơi có những tấm bảng khắc ghi tên họ của những người bản xứ đã chết cho nước Pháp và nơi đó việc thờ cúng sẽ được tổ chức mỗi năm với sự phụ giúp của chính người An Nam”
(to establish in France, and if possible in Indochina, one or several pagodas of memory, sort of Indochnese Pantheons, where tablets would be kept registering the names of the natives who died for France and where the funerary cult would be celebrated each year…with the help of Annamites themselves)
(Dịch lại từ tài liệu trên internet)
Chính nhờ chủ trương này mà ngôi Miễu Tử Trận của Thủ Dầu Một đã được thành hình vài năm sau đó.
Năm 1919, vua Khải Định hạ chiếu chỉ chính thức nhận ngôi đình Bà Lụa này để thờ người An Nam trên đất Pháp.
Sắc chỉ của vua Khải Định
Vào ngày 9 tháng 6 năm 1920, tổ chức trọng thể lễ khánh thành ngôi đền với sự tham dự của nhiều quan chức cao cấp Pháp như Albert Sarraut, Maréchal Joffre...
Lễ khánh thành đền tử sĩ
Vào ngày thứ hai, 26 tháng 5 năm 1922, vua Khải Định, con trai là Hoàng Tử Bảo Đại, cùng với quan Thượng thư Thuộc địa Albert Sarraut (chữ dùng theo Phạm Quỳnh) đến thăm ngôi đền khi nhà vua lần đầu tiên công du sang Pháp. Ông Phạm Quỳnh có ghi lại trong nhật ký của mình sự kiện đó.
“Thứ hai, 26 tháng 6 năm 1922
Hôm nay Hoàng thượng cùng quan Sauraut đến thăm nghĩa sĩ tử ở Nogent sur Marne. Sẳn có ô tô, anh em cũng đánh bộ “gia két”, đội mũ “mơ long” chạy xe về Nogent xem lễ. Quan nguyên học chính Gourdon làm hội trưởng hội “Đông Pháp Kỷ Niệm” (Le Souvernir Indochinois), diễn thuyết chúc mừng, Hoàng thượng đáp lại mấy câu, chắc là những lời hùng biện cả, nhưng đứng xa chẳng nghe thấy chi hết. Xong rồi Hoàng thượng vào thắp hương trong đền, ra đặt vòng hoa sắt ở cái đài Kỷ niệm những chiến sĩ theo đạo Thiên Chúa ở ngoài vườn, dạo quanh vườn một lượt, rồi lên xe, vua quan trẩy về Paris hết.” .(3)
Điều vô cùng đáng tiếc là ngày 21 tháng 4 năm 1984, một trận hỏa hoạn, bị tình nghi là do hành động phá hoại, đã thiêu rụi ngôi đền. Người ta có cho xây dựng lại tại nền cũ một kiến trúc khác, có người gọi là phương đình, nhỏ và đơn sơ hơn trước nhiều. Vết tích cũ, nay chỉ còn lại cái nền và lối đi tam cấp có tạc hình rồng bằng đá. Tượng rồng này, có hình dáng và tư thế tương tự như hình rồng tại Miễu Tử Trận ở Bình Dương.
Đây chỉ là nói phớt qua vài nét chính, câu chuyện về số phận ngôi Đền Tử Sĩ trên đất Pháp với nhiều tình tiết thú vị sẽ được trình bày cặn kẽ trong một bài viết khác dài hơn.
Trở lại với ngôi Miễu Tử Trận ở Bình Dương, ngày nay là một công viên nho nhỏ với nhiều cây xanh, hồ nước. Dân địa phương chiều chiều ra ngồi hóng mát, hưởng những làn gió hiền hòa của thưở thanh bình, ít ai còn nhớ đến một dĩ vãng chiến tranh xa xăm trên quê hương điêu linh có quá nhiều mất mát và nước mắt..
CHÚ THÍCH:
1/ Nhiều tác giả, Dân ca Sông Bé, tr. 47, nxb. Tổng Hợp Sông Bé, 1991
2/Thích Huệ Thông, Sơ Thảo Phật Giáo Bình Dương, nxb. Mũi Cà Mau, 2000, tr.64,
3/Phạm Quỳnh, Hoàng đế Khải Định trước con mắt của thần dân Phạm Quỳnh
4/ Tài liệu tham khảo: Điạ phương chí 1975, tỉnh Bình Dương, Sở Học Chánh tỉnh Bình Dương.
Tác gia?: Hoàng Anh (ngày 10-03-2011)
No comments:
Post a Comment