Tuesday, February 4, 2014

Người Bình Dương

Sử sách chép rằng thưở xa xưa trên vùng đất Bình Dương ngày nay đã từng có các tộc người Xtiêng, người Chàm, rồi người Khơ øme đến sinh sống, người Việt ta chỉ mới bắt đầu đặt chân đến đây vào khoảng đầu thế kỷ 17. Thế nhưng khi người Việt ta đến, những tộc người này thiên cư dần lên phía Bắc ở những nơi mà người đồng tộc với họ cư trú từ lâu. Đất đai này lúc ấy dường như hoang vắng chỉ toàn là rừng rậm và thú dữ.

    Thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, cả dinh Trấn Biên có khoảng  4 vạn hộ, tức 40.000 gia đình. Vùng đất nay là tỉnh Bình Dương thưở ấy thuộc Tổng Bình An,  dinh Trấn Biên, vốn  nhiều rừng rú và thú dữ, dân đến đây lập nghiệp chắc là không có bao nhiêu.

    Tổ tiên của những người khai hoang lập ấp trên đất Bình Dương, lúc ấy còn gọi chung là ngừơi Gia Định, vốn chủ yếu là dân từ các tỉnh Quảng Bình, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, thường gọi tắt là dân Nam Ngãi Bình Phú. Sách Vũ Biên Tạp Lục chép : “ Họ Nguyễn lấy được đất đai ấy rồi chiêu mộ những lưu dân ở các phủ Điện Bàn, Quảng Nam, Quảng Ngãi di cư đến khai khẩn, lập ra đất Trấn Biên ăn thông đến Giồng Ông To,á phía Tây đến vùng Thủ Dầu Một  Lái Thiêu.”
( trích lại từ Việt Sử xứ Đàng Trong, Phan Khoang)

    Rời bỏ quê hương để trôi giạt đến những vùng đất xa xôi “ ma thiêng nước độc”, chắc phải là dân lính tráng hoặc những người cùng khổ, hay những kẻ tội nhân lánh sự truy bắt của triều đình tìm chốn ẩn thân. Về sau mới có thêm ít người giàu có do tham mối lợi lớn mà mạo hiểm đến bỏ tiền của tạo nên cơ ngơi bạt ngàn ở đây.

    Vũ Biên Tạp Lục viết :
   
    “ Lấy được đất ấy (Gia Định ), rồi chiêu mộ những dân có vật lực ở các phủ Điện bàn, Quảng Nghiã, Qui Nhơn xứ Quảng Nam, di cư đến, chặt cây, khai phá, trở thành bằng phẳng, đất nước mầu mỡ, cho họ chiếm lấy, lập vườn trồng cau, làm nhà ở.”

    Sơn Nam trong “Đồng bằng sông Cửu Long” viết :

    “ Người Việt đến, qua nhiều đợt, chạy đói khi mất mùa… Đời Minh Mạng tù nhơn khắp nơi đến, người mang tội nặng co ùthể bị xiềng chân ngay trong lúc phục dịch bọn quan lại, vợ con có thể đi theo.Ngoài số thường phạm còn người bị xử oan ức vì không đủ tiền lo hối lộ, những tội phạm chính trị bị đày cùng gia đình, nhứt là sau vụ khởi binh của Lê Văn Khôi. Trước đó, người ủng hộ Tây Sơn đã bị truy nã tận gốc”.

    Trong khoảng thời gian dài từ sau đợt định cư chính thức kể trên, chắc hẳn có nhiều đợt định cư lẻ tẻ của các lưu dân từ các tỉnh miền ngoài. Chẳng hạn vào khoảng trước năm 1845 các tín đồ Thiên Chúa Giáo tại miền Bắc vì bị ngược đãi đã trốn vào sinh sống ở Lái Thiêu, lập nên làng Thiên Chúa Giáo Hưng Định. Nhà Văn Sơn Nam viết :
      
    “Lái Thiêu và Búng còn là nơi cư trú an toàn của người theo đạo Thiên Chúa, gốc từ miền Trung, hoặc từ Sài Gòn, lúc đầu thi hành chánh sách kỳ thị. Ban sơ giáo dân tụ ở Cây Me”.( Sơn Nam )

    Trong hồi ký của Grammont, quyển “Onze mois desous-pre’fecture on Bassecochinchine” Paris 1863, đã có các chi tiết như sau : “ Năm 1845, giáo sĩ Le fevre trở lại Sài Gòn và đến ở tại Lái Thiêu (…). Làng Thiên Chúa-giáo Hưng Định từng bị thiêu hủy vào năm 1861( …)”

    Trong quyển “ Nhà thờ Lái Thiêu” ( năm 1994, nhân kỷ niệm 100 năm xây dựng) viết : “ Theo quyển “ Lịch sử Truyền Giáo ở Đàng Trong “ của Launay xuất bản năm 1924 tại Paris thì từ năm 1747 Lái Thiêu đã n
m trong danh sách 11 họ đạo của vùng Trấn Biên,  lúc ấy Lái Thiêu đã có 400 giáo dân đứng vào hàng thứ ba của Địa phận Đàng Trong.Từ sự kiện nầy, chúng ta xác định họLái Thiêu đã được thành lập từ nhiều chục năm trước 1747”.

    Đến thời Pháp đem quân qua xâm chiếm 3 tỉnh miền Đông (1861), huyện Bình An có 9 tổng, 89 xã, với một số dân vào khoảng 100.000 người. Huyện Bình An lúc này bao gồm một diện tích rất rộng, gồm cả huyện Thủ Đức  và phần lớn đất đai thuộc hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước ngày nay.

    Đến năm 1912, khi người Pháp lập nên các đồn điền cao su ở Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Bến Củi, Lộc Ninh, Hớn Quảng…họ đã thu hút thêm nhiều lao động từ miền Bắc vào đây. Đến năm 1954, với đợt định cư thứ ba của đồng bào miền Bắc tại Thủ Chánh, Rạch Bắp, Hớn Quản…thì người miền Bắc đã khá đông.

    Sau hiệp định Geneve 1954, BD còn tiếp nhận thêm một số tín đồ Công Giáo di cư từ tỉnh Phước Tuy đến tại Văn Hữu ( Chơn Thành ) và sau định cư tại làng Vinh Sơn thuộc quận Châu Thành, nay là Thủ Dầu Một…

     Khỏang những thập niên đầu thế kỷ hình thành một xóm của người Huế ở khu vực gần mộ Hiệp Trấn, đối diện trường Hùng Vương gọi là xóm Huế, còn gọi vùng nghĩa trang Đất Thánh, đa số dân nghèo, làm nghề bán thuốc dạo gia truyền hoặc nghề mộc, thủ công. Không ai buôn bán nên không phổ biến được những đặc sản địa phương. Không biết được họ định cư ở đây từ bao giờ, lý do gì.

    Ngoài số người Việt từ các tỉnh miền ngoài đến đây khai hoang như đã kể trên, rất đáng kể đến bộ phận người Hoa, thường được gọi một cách thân thiện là “các chú ba Tàu”.
Đầu tiên là nhóm bộ hạ, thân thích của Trần Thựơng Xuyên, di thần của nhà Minh, do lánh nạn Thanh triều được chúa Nguyễn thời ấy thuận cho vào đất Trấn Biên lập nghiệp. Theo sử gia Tạ Chí Đại Trường, đây chỉ là nhóm giặc biển qua đây tìm chốn dung thân, bởi nhà Minh bị diệt đã lâu trước thời điểm họ đến đây, những sự kiện biến loạn về sau ở vùng Mỹ Tho càng củng cố thêm cho lập luận này.

    Cuối thế kỷ 19, một số người Hoa ở Cù Lao Phố xuôi theo sông Đồng Nai về định cư dọc kênh Tàu Hủ và lập nên Chợ Lớn. Ta không biết có ai trong số họ trôi giạt về vùng tổng Bình An vào hồi đó hay không, nhưng chính sự có mặt của họ đã là nhân tố quan trọng thu hút ngày càng nhiều người Trung Hoa đến miền Nam, trong đó có huyện Bình An về sau này.

    “Riêng trong huyện Bình An cũ (vùngThủ Dầu Một, không kể Tân Uyên ) đời Tự Đức ghi 2 bang người Hoa. Sự có mặt của họ đáng chú ý. Những người này có lẽ làm chút ít hoa màu, nghề chánh yếu là lò đường, cưa ván, đóng ghe tải. Bấy giờ nghề gốm chưa thành hình.” ( SN )

    Lúc ấy, cả địa hạt có 47.825 người, trong đó người Hoa chỉ có 119 người. Đến khoảng đầu thế kỷ 19, họ bắt đầu phát hiện ra những ưu điểm về đất đai và địa thế rất thích hợp cho việc lập lò gốm ở địa phương nên về đây ngày càng đông. Đến năm 1931, tổng số người Hoa là 6.420, có tăng giảm đôi chút trong những năm sau do hoàn cảnh chính trị xã hội khi ấy có nhiều biến động.

    Đến tháng 04 năm 1974,  cả tỉnh Bình Dương có 260.786 người, định cư rải rác trên một khu vực ước tính chưa đầy 2000 km2, trong đó người Việt gốc Hoa có 17.977 người, chiếm 6.8% dân số. Phần lớn sinh sống ở hai quận Châu Thành ( 10.154 người ) và Lái Thiêu ( 6.741 người).

    Trên đây không phải là những con số chính xác tuyệt đối do tỉnh này thường có những thay đổi về địa giới, nhưng cũng giúp ta hình dung phần nào mật độ dân cư ngày xưa so với thời điểm hiện tại.

    Như vậy ta nhận thấy rằng thành phần tạo nên cộng đồng dân cư Bình Dương không có khác biệt chi lắm với các vùng khác ở Nam bộ. Tổ tiên họ là những người từ các tỉnh miền Trung đến đây vì nhiều lý do khác nhau, có người do bị tù đày, có người muốn tìm nơi hẻo lánh để tránh sự truy bắt của triều đình, có người tránh nạn kỳ thị tôn giáo, có người vì quá nghèo đói, hoặc hoàn cảnh khó khăn mới đành phải rời bỏ quê hương mạo hiểm đi tìm đất sống ở chốn ma thiêng nước độc. Họ đến từ những thời điểm khác nhau, kẻ trước người sau. Theo thời gian, trong điều kiện và hoàn cảnh sinh sống mới, họ học tập, trao đổi và giúp đở nhau để cùng tồn tại và phát triển, dần dà hoà nhập để tạo nên những tính cách riêng biệt của những người được gọi là người Bình Dương.

    Sau 1975, dân số Bình Dương tăng nhanh dần, đặc biệt kể từ khi chính quyền thực hiện chính sách mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài thu bút rất nhiều nhân lực để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đất đai và thời tiết hiền lành, lại dễ làm ăn, nhờ vậy BD mau chóng thu hút dân cư từ mọi miền đến đây làm ăn, sinh sống. Những yếu tố này khiến cộng đồng dân cư của BD hiện nay rất đa dạng, nhiều tính cách.Với dân số vào khoảng 800.000 ngừơi, cọâng thêm hơn 400.000 người lao động tạm cư (con số này hứa hẹn còn tăng nhiều để có thể đáp ứng kịp sự phát triển rầm rộ các khu công nghiệp hiện nay ).

    Với sự đóng góp những đặc điểm văn hóa từ những địa phương khác, cộng với tinh thần biết tôn quí giá trị truyền thống mà đồng thời cũng dễ dung nhập cái mới, tính chất con người Bình Dương hiện đại đang trên qúa trình hình thành, chúng ta chưa thể hình dung hay xác quyết được rồi nó sẽ ra sao.

    Vì lý do đo, để biết những gì là đặc trưng tạo nên tính chất của người Bình Dương, chúng ta phải tạm chấp nhận mô tả con người Bình Dương từ năm 1975 trở về trước, thời điểm mà những dòng nhập cư khác nhau chưa nhiều  hoặc đã định cư trên cộng đồng này một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hoà nhập vào xã hội của người Bình Dương, hình thành nên những tính chất của BD nói chung.


Tác gia?: Hoàng Anh

Những con đường chợ Thủ


Thưở xưa, sông Sài Gòn chảy dọc theo chiều dài của tỉnh là lối giao thông chủ yếu, ghe thuyền xuôi ngược trên dòng sông vận chuyển những người khai hoang đi tìm đất mới hay đem hàng hóa xuống tận miền Tây, lên tới Dầu Tiếng, Cao Miên. Người Pháp, khi đánh xong thành Gia Định cũng đã dùng chiến thuyền ngược theo dòng sông này mà lên chiếm luôn Thủ Dầu Một. Một trận đánh ác liệt, đổ nhiều máu có lẽ đã diễn ra trên dòng sông này, giữa những tên xâm lược và những chiến binh dân ấp dân đinh liều chết để giữ gìn sông nước của quê hương. Một vị võ quan, tương truyền tên là Văn Đức Lại đã chỉ huy việc trấn thủ và hy sinh trong trận đánh ấy, nay, tiếc rằng sử sách không còn để giúp ta biết thêm về những vị anh hùng vị quốc vong thân thời xưa ấy.
Chiếm được đất rồi, kẻ cai trị lo xây dựng củng cố vùng đất mới và việc giao thông dần dà hình thành, phát triển, quá trình ấy bắt đầu được ghi nhận bằng giấy bút lưu lại đời sau giúp cho hôm nay ta còn biết được ít nhiều về quang cảnh thời ấy.
Nhà văn Sơn Nam viết:
“Năm 1900, lúc kỹ thuật xe ô tô còn thô sơ, một tay thực dân là Ip-po-lit-tơ (Ippolitts) đã thầu dịch vụ chở thư từ, công văn đi Thủ Dầu Một mỗi tuần. Công ty tàu thủy của Pháp thử mở tuyến đi và về, 2 tuần một lần, vào ngày thứ sáu, từ năm 1885, nhằm chở lính, gạo cho đồn bót, chuyến về thì kéo đòan ghe chở củi, cây súc.”
(Sơn Nam,Truyền thống văn hóa, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.339)
Thập niên sau, căn cứ theo tập Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một năm 1910, việc lưu thông có bước phát triển khá hơn:
“Một chiếc sà-lúp của người Hoa tương đối tiện nghi mỗi ngày có chuyến khứ hồi giữa Thủ Dầu Một với Sài Gòn. Tàu khởi hành 7 giờ sáng ở Thủ dầu Một và 6 giờ chiều thì đã về cập bến. Mỗi lượt đi hay về chỉ mất 2 giờ 30. Đường sông quanh co đẹp như tranh vẽ, giữa đôi bờ xanh tươi và thuyền bè đi sông đi biển chở nặng gỗ cây, trái cây, lúa gạo và muối ăn.”
(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.213)
Tư liệu của Tổng niên giám Đông Dương 1910 cũng cho biết:
“Một tàu thủy của hãng Yeng-Seng chạy trên sông Sài Gòn mỗi ngày một chuyến khứ hồi từ Thủ Dầu Một tới Sài Gòn. Sáng 7 giờ khởi hành từ Thủ Dầu Một tới Sài Gòn hồi 10 giờ. Chiều 3 giờ khởi hành từ Sài Gòn tới Thủ Dầu Một hồi 6 giờ. Lượt đi cũng như về, đều có ghé tại Lái Thiêu. Giá vé một lượt, hạng nhất 0đ80, hạng nhì 0đ50 và hạng ba 0đ40.”
(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.220)
Muốn qua sông, người ta phải đi đò, bến đò nằm ngay tại khu chợ cá, thời đó đò chưa có động cơ mà phải nhờ hai trục bánh xe gắn ở hai bên đuôi thuyền, nối liền với các cánh quạt, khi di chuyển có hai người đàn ông đạp trục bánh để tạo lực và điều khiển hướng đi của thuyền. Gặp khi nước ngược, thuyền thường bị đẩy giạt đi khá xa. Mỗi chuyến chở được cũng đôi ba chục khách. Có vị cao niên kể rằng đôi khi thuyền còn chở cả xe ngựa, nhưng phải đợi khi nước lớn để tránh độ dốc ở hai bờ sông.
Những con đường bộ được hình thành dần sau đó, đường đất, gập ghềnh và lầy lội trong mùa mưa, phương tiện di chuyển chỉ có xe bò hay xe ngựa. Một đọan văn xưa miêu tả:
“Chợ nằm ngay khúc quành của dòng sông, chiếm hết hậu trường của khung cảnh. Bên phải và bên trái là những lùm bụi um tùm và các cội cao tơ như nép sát vào bờ sông bên con đường mòn màu đất đỏ quạch đã vẽ thành những đường rực lửa cắt ngang nền xanh của vùng đất trù phú hoang vu này”
(Hòai Anh, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, tạp chí Xưa và nay số 45B, tr.15)
Mãi đến khi người Pháp qua mới bắt đầu mở mang kiến thiết đường xá thành một mạng lưới giao thông cơ bản và khá hòan chỉnh, một số con đường chính cũng được tráng nhựa để phục vụ cho xe có động cơ chạy xăng dầu.Hệ thống giao thông toàn tỉnh được ghi nhận như sau:
“Tòan tỉnh có 210 km đường bộ, chia ra 190 km đường rộng 4m và 20 km đường rộng 3m. Chỉ có 25 km đường thuộc Sở lục lộ, còn là đều do tỉnh phụ trách bảo trì. Người đứng đầu cầu đường tỉnh là một viên chức bản xứ. Du khách ai cũng thán phục là đường lộ của tỉnh nhà thật tươm tất.
Một số đường đang được cải thiện và nối dài”
(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.213)
Những con đường đang được “cải thiện và nối dài” đó là đường từ Sài Gòn lên tới Bến Cát, đường qua Biên Hòa, Tây Ninh, và con đường từ Lái Thiêu qua Tân Uyên, Biên Hòa.

Chợ Thủ Dầu Một
Đến năm 1934, chợ Thủ Dầu Một, nhà làng Phú Cường, hệ thống dẩn nước được khánh thành trọng thể, cùng với những con đường được tráng nhựa giới hạn xung quanh khu vực chợ. 
Con đường quan trọng nhất ở giai đọan này là đường liên tỉnh nối liền Sài Gòn với Thủ Dầu Một, nối dài thêm mãi về sau chạy lên tới Lộc Ninh, qua Cam Pu Chia,  ngang qua các đồn điền cao su rộng lớn,  dưới chế độ miền Nam có tên gọi là Quốc lộ 13. Tài liệu từ năm 1910 cho biết:
“Đường bộ nối Thủ Dầu Một với Sài Gòn dài 28km luôn được bảo trì tốt. Nếu đi xe hơi (1910) thì mất 3 khắc, còn xe ngựa thì mất 2 giờ 30. Tới Lái Thiêu đã bắt đầu leo dốc quanh co thoai thỏai, cảnh vật thật ngọan mục.”
(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.212)
“Đường bộ từ Sài Gòn tới Thủ Dầu Một mất 20km qua đường thuộc địa số 2. Mỗi ngày có 2 chuyến xe đò. Đường đó sang tới Cam Pu Chia”
(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.220)
Như vậy tên của con đường quốc lộ 13 thưở đầu thế kỷ là đường Thuộc địa số 2, một cái tên khá xưa nay còn biết. Đây là con đường huyết mạch của tỉnh, hai bên nhà cửa san sát, khang trang, hàng quán trưng bày đẹp mắt. Đến năm 1973, người Mỹ xây dựng thêm tuyến đường mới, gọi là đường xa lộ (nay thuộc đại lộ Bình Dương), chạy từ Lái Thiêu lên đến khu vực Mũi Dùi (xã Chánh Hiệp, nay là phường Hiệp Thành) để giải tỏa bớt áp lực của xe cộ lưu thông trên đọan đường chạy ngang trung tâm chợ. Đường xa lộ rộng, láng, đem đến sự ngạc nhiên và thán phục của dân chúng, tuy nhiên xe cộ chưa lưu thông nhiều trên đường này mà dành cho xe loại lớn như xe be, cam nhông và đặc biệt, các loại xe quân sự, đôi khi chạy rì rầm cả đêm. Xin mượn tạm đọan văn sau đây, ghi lại hình ảnh của con đường xa lộ ngày trước:
“Một đoàn xe nhà binh mở đèn từ phía Tân Cảng Sài Gòn rầm rộ tiến trên xa lộ Bình Dương, kéo lê theo sau những thùng sắt khổng lồ chứa đựng quân lương và đạn dược. Bánh xe ép trên mặt lộ truyền từng cơn chấn động đến chỗ Cúc đang ngồi trong quán nước cạnh xa lộ. Chiếc xe quân cảnh mở đường hụ còi, đèn đỏ lớn hai bên vè chớp tắt cuống quít. Người lính ngồi trên xe nổ súng, đoàn xe dừng lại trước cuộn rào kẽm gai kéo chắn ngang con đường đất đỏ khá rộng dẫn vào rừng, hai người lính đứng sát hai bên rào gai. Gã quân cảnh bước xuống xe móc túi đưa lộ trình. Đoàn xe chậm chạp quẹo vào con đường đất đỏ, động cơ rầm rì. Cúc ngồi trong quán bên kia đường ngó qua. Cho tới lúc chiếc xe bọc hậu khuất sau đám bụi đỏ mịt mù. Trời xế trưa, nóng hực.”
…..
“Từ phía Bình Dương ào ào xô tới một đoàn xe tăng rầm rĩ, xích sắt chấn động làm rung rinh ghế Cúc đang ngồi, ly chai trên bàn va chạm leng keng. Cúc sốt ruột đứng dậy ra đứng bên cạnh Sáu Cụt. Đoàn xe tăng kéo lê theo sau mỗi chiếc một khẩu trọng pháo, nhiều cỡ khác nhau. Chiến xa dẫn đầu từ từ quẹo vô con đường đất đỏ, những chiếc sau nối đuôi, bầy rùa sắt chậm rãi bò tới, nặng nề, dọa nạt. Tiếp đến bốn chiếc cuối cùng có gắn liền ở tháp xe những khẩu trọng pháo dài ngoằn độ sáu bảy thước, theo sự ước lượng của Cúc, nòng pháo chĩa nghiêng chếch lên trời.”
(Kiệt Tấn, Điểm Hẹn Cuối Năm)
Từ năm 1999, đọan đường từ ngã ba Mũi Tàu (thuộc phường Hiệp Thành, Thủ Dầu Một) đến giáp ranh xã An Thạnh có tên mới là Cách Mạng Tháng Tám (dài 5.509, 9m).
Chạy song song với con đường này là con đường dọc theo bờ sông, từ giao lộ Bàu Bàng, đi 1741m đến Miễu Tử Trận, nay là một công viên nằm giữa ngả ba rẻ lên trường Sĩ quan Công Binh. Thời Pháp, đó là đường LaGrandièr. Tên đường hầu hết là do Tây đặt, và dĩ nhiên mang tên Tây, nay có lẽ chỉ còn duy nhất đường Yersin là dấu vết của thời đó.
Đường Hàng Dương (Đường Bạch Đằng)
Đường Bạch Đằng bắt đầu từ miễu Tử Trận, đi ngang qua khu vực xưa có tên là An Nhất Thuyền, nhiều người cho rằng sở dĩ có địa danh đó là vì xưa đây là vùng đóng thuyền ghe nổi tiếng của Nam bộ, có lẽ do suy ra từ chữ “Thuyền” chăng?. Theo học giả Nguyễn Đình Đầu, thì “Thuyền” chỉ một đơn vị hành chánh tương đương cấp ấp, thời đó cả miền Nam có năm “thuyền” như vậy. về các trại ghe, nhà văn Sơn Nam cho biết rõ hơn:
“Theo tư liệu của sĩ quan Pháp là Đờ-Gra-Mông (Lucien De Grammont) thì đã có một viên quản đồn điền nắm quyền, dân tập trung ở khu vực gọi “đường phố dài”, tại thủ (đồn) có đến 22 xí nghiệp cở lớn chuyên đóng ghe. Tác giả này không ghi chi tiết. Ta suy luận là những trại cưa xẻ gỗ đóng ghe tải (grands chantiers de construction). Có lẽ người Hoa tập trung về đây chăng?”
 (Sơn Nam,Truyền thống văn hóa, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.334)
Ông Nguyễn Liên Phong, đến năm 1909, cũng ghi nhận hình ảnh này:
“Trại ghe trại ván sẳn cùng
Sông sâu nước chảy điệp trùng bán buôn” 
(Nguyễn Liên Phong, Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, sài Gòn, Phát Toàn, 1909, tr.14)
Trại đóng ghe, qua những gì còn lưu lại như trên, cho thấy từ khi Pháp mới đến cho tới hồi đầu thế kỷ 20 là một hình ảnh ấn tượng của địa phương. Nơi đóng ghe, tất yếu phải nằm men theo kinh rạch, sông để thuận lợi cho việc vận chuyển cây gỗ và  hạ thủy khi sản phẩm hoàn thành. Có thể suy luận thêm, như vậy từ thời xưa, con đường này đã khá nhộn nhịp, đông đúc xe cộ và người qua lại. Tuy nhiên không biết tại sao, chỉ vài mươi năm sau thôi thì các trại ghe này không còn nhìn thấy nữa.
Qua khỏi thuyền An Nhất thì đến cầu ông Kiểm (còn gọi cầu Cây Cui,có phải đọc trại từ cây Keo, vì bên cầu có một cây keo rất lớn?), phía tay phải là trường Mỹ Thuật (xưa hay gọi trường Bá Nghệ) xây dựng tại đây từ đầu thập niên 30 thế kỷ trước.Tay trái là sở Quan Thuế. Từ đây, phía mặt tiếp giáp với dòng sông, phía trái là các trụ sở cơ quan của chính quyền, cho đến khi tới chợ.  Dựa vào hình ảnh trên các tấm bưu thiếp từ thời Tây nay còn lưu lại, có thể nói rằng đây là đoạn đường xưa và đẹp nhất của chợ Thủ nhờ nằm sát bờ sông, phía bên sông là vườn trái cây xanh hiền hòa, bên đây là nhiều công trình kiến trúc của Tây. Nhất là ngọn đồi cao với nhiều cây cổ thụ, bao quanh tòa nhà làm việc của quan Tham Biện tỉnh. Theo Trần Bình Dương, ( Trong bài Hàng Dương-con đường đẹp nhất Bình Dương) dựa vào tài liệu của Baurac ( La Cochinchine et ses habitants-Sài Gòn 1899) và Monographie de Thu dau Mot 1910, đầu những năm 1890, chính quyền Pháp ra lệnh đốn hết hàng trăm cây dầu mọc ven đường và trồng tòan cây dương ( peuplieur filao), từ đó, dân gian mới gọi là đường Hàng Dương (Bình Dương, miền đất anh hùng, nhiều tác giả, nxb.Trẻ, 2006, tr.149). Từ năm 1910 đổi thành đường Bạch Đằng, dân gian cũng gọi là bến Bạch Đằng (Pháp gọi Quai de Belgique) để chỉ đọan đường chạy ngang tòa Tham biện tỉnh.
Bài vè xưa về chợ Thủ mô tả con đường này:
“Bên sông chợ cá
Đường đi mát quá
Lại có Hàng Dương
Đi thẳng một đường
Lên cầu ông Kiểm
Máy cưa bằng điện
Bá Nghệ một bên
Từ đó đi lên
Có hai dãy phố
Đàn bà thiệt ngộ
Quần vận bằng chăn
Đầu uốn tóc quăn
Xem ra rất tốt
Nhìn bốn cây cột
Có bốn con rồng
Chữ đề ở trong
Là Miễu Tử Trận”
Hồi ký của Grammont có đọan văn khá tài hoa hết lời ca ngợi quang cảnh nơi đây:
“Sự bố trí ở đây được coi là một khung cảnh hòanh tráng, cộng thêm những vẻ mỹ miều của các danh thắng, mà không làm mất đi phần nào tính cách hoang sơ thôn dã của nó. Độc đáo tự nhiên của khu vực đã tạo ra một nhiệt độ ôn hòa, nhờ những cây cổ thụ đã che bớt sức nắng gay gắt của buổi ban trưa. Vào những ngày đẹp trời, khi chiều xuống, nếu có ai dừng lại ở giữa cao nguyên, vì ngay lúc mặt trời sắp lặn, các ánh hòang hôn hiu hắt sẽ được ngọn gió nồm đìu hiu thổi về làm tắt lịm hẳn đi. Ánh vàng bàng bạc còn chiếu lên tất cả những đường nét chi li của tòan khung cảnh trang hòang tuyệt mỹ này, một cách tự nhiên, hòa hợp với vô vàn hương sắc hòa quyện trong hơi ấm của dòng sông, tỏa lên tận các tàng cây rủ bóng, từ các lùm bụi cỏ hoa, ta tưởng chừng một thóang đã để hồn lâng lâng giữa một tòa nhà kính bao trùm lên những lượn sóng triều, xanh biêng biếc. Thế là ta không còn tưởng mình ở đất Nam kỳ nữa: không còn những ruộng lúa, những đầm lầy với ánh nắng chói chang như lửa. Ta cứ tưởng như gặp lại đâu đây những cảnh đẹp lừng danh của vùng Tân thế giới và ta như cảm thấy sống lại trong ta một kỷ niệm xa xôi, vui nhộn, mà rạo rực, của những dòng sông trù phú đã được mô tả trong áng cổ thi bất hủ của Attala. Tôi đã sống qua suốt bảy tháng trời tại đây. Trong suốt thời gian này (Tôi ngần ngại không dám tự thú) dường như có đôi lần tôi đã quên hẳn nước Pháp.”
(Hòai Anh, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, tạp chí Xưa và Nay số 45B, tr.16)
Một trăm năm sau, năm 1954, nhà văn, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền có thời gian về dạy học tại trường trung học tư thục Nguyễn Trãi ở Bình Dương. Trong một lá thư ông viết cho một người học trò cũ của mình ở thời kỳ ấy (giáo sư Võ Tấn Phước), ông cũng nhắc đến con đường Hàng Dương:
“Tôi rất thích con đường bờ sông vắng vẻ với một bên là khu tòa tỉnh cây cối um tùm, một bên là mặt nước trải phẳng , xa xôi và hiền lành; ngồi ở ngôi nhà thủy tạ bên bờ sông có thể trông xa tới tận ngôi trường Công Binh nằm phía bên kia cây cầu xi măng ngắn nơi ngăn cách con đường tráng nhựa của thị xã và con đường đất bụi của vùng ngọai vi.”
(Thư của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền gởi người học trò cũ, ngày 18-01-92)
Khi người Pháp đến, trên đường đã tồn tại hai ngôi chùa cổ:
“Một ngôi chùa nho nhỏ đã biến cải thành vọng gác cất chồm ra bờ sông và nằm chắn ngang giữa bãi. Làm nền cho ngôi chùa là một cây xòai tơ, điểm nhô ra xa nhất của cái ghềnh  nho nhỏ này.
“Ngôi chùa kia nằm lui về đường ranh giới bên trong của địa điểm nổi bật này. Ngôi chùa đã biến thành một thứ đồn lũy nhỏ với các trại quân và công sự phòng thủ. Hông chùa tiếp giáp với bờ sông là một chiến lũy có lỗ châu mai thiếp lập dài theo bờ thành. Sự bố trí ở đây được coi là một khung cảnh hòanh tráng, cộng thêm những vẻ mỹ miều của các danh thắng, mà không làm mất đi phần nào tính cách hoang sơ thôn dã của nó.”
(Hòai Anh, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, tạp chí Xưa và nay số 45B, tr.15)
Tác giả nhận xét về hai ngôi chùa như sau:
“Tòan vùng sẽ tạo cho ta một nỗi niềm thành kính đối với quê hương đất nước này. Ai cũng nhận thấy điều đó nhờ có hai ngôi chùa. Mỗi ngôi chùa là một tòa kiến trúc uy nghi. Ngôi nằm gần dòng sông là ngôi đẹp nhất. Từ ngày bị xâm chiếm, ngôi chùa đã trải qua bao cuộc đổi thay. Đầu tiên là trại quân, tiếp sau đó làm lỵ sở của tỉnh, rồi tòa án, rồi nhà ở của Bộ Chỉ Huy, và cuối cùng chùa được giao cho một nhiệm vụ tầm thường là một câu lạc bộ, rồi một phòng ăn.”
 (Hòai Anh, sđd)
 Nhà văn Sơn Nam ghi chép rằng:
“Các vị bô lão còn kể lại: địa điểm chợ Thủ Dầu Một là bến xe trâu, thuận lợi để tắm trâu và rửa xe. Gần bến là quán trà Huế, quán cơm, lần hồi thành chợ”
(Sơn Nam, Truyền thống văn hóa, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.337)
Ông Nguyễn Liên Phong, vào năm 1909, cũng cho biết một chi tiết quan trọng về nguồn gốc của chợ Thủ:
“Chợ đông người nhóm dập dều
Chợ Thủ nguyên trước cựu triều bến xe”
(Nguyễn Liên Phong, Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, sài Gòn, Phát Toàn, 1909,tr.14)
 Khu vực bến đò và chợ cá, rất có thể là bến xe trâu thưở xưa. Qua khu vực chợ cá, có nhà thầy Năm Trong nổi tiếng giàu có, nay chỉ còn lưu lại cây trụ cửa ngỏ đúc bằng gạch và xi măng có chạm trổ hoa văn. Kế đó là nhà bảo sanh của bà Năm Chi, nay là khu chung cư cao tầng.Vượt qua cây cầu là khu vực của người Tàu, đông đúc, náo nhiệt, nhà cửa có nhiều màu đỏ đặc trưng của họ. Phía tay trái có ngôi nhà to và đẹp nhất khu vực là dinh cơ của Hội đồng Ngôn, vào thập niên 50 là xưởng sản xuất loại đĩa nhựa 45 vòng chuyên dùng để thu các tuồng cải lương và vọng cổ.
 Đến giao lộ Bàu Bàng (trước là đường Trương Vĩnh Ký), còn gọi khu Lò Heo, thuộc đường Nguyễn Tri Phương, kéo dài 3350m đến giao lộ 30-04.
Từ lúc này, con đường chạy len lỏi giữa những làng mạc vườn quê xanh mát và hiền hòa, qua nhiều cây cầu nhỏ và ngôi miếu thờ Bà Thiên Hậu (bên cầu Thủ Ngữ, đây là tiền thân của “Chùa Bà” ở đường Nguyễn Du hiện nay). Đi mãi, sẽ đến cảng Bà Lụa với ngôi đình cổ nổi tiếng linh thiêng và nhất là nét đẹp về kiến trúc đặc trưng truyền thống của Nam bộ. Đình xây từ khi nào không rõ nhưng khi Pháp mới qua, ngôi đình này đã có mặt và được nhắc tới:
“Sau khi đi ngang qua chợ, các bạn sẽ ra đi khỏi làng, về phía Nam. Rồi các bạn lần theo một con đường mòn xinh xinh có những đường viền linh động. Nhiều cây cầu bắc ngang, những hàng rào xương rồng cao cao, những cây cối xum xuê đầy triển vọng, nó dành cho bạn muôn ngàn sự bất ngờ sau mỗi bước đi. Bạn sẽ đi tới bờ kinh, nơi kết thúc khu dân cư, cách đó chừng năm cây số. Tại đó bạn sẽ gặp ngôi chùa Bà Lụa, chùa cất dưới một vòm lá cao khoảng 150 bộ, giữa gốc ba cổ thụ to, tôi chưa từng thấy bao giờ. Có khi chúng tôi cũng đi săn tới nơi đó  và ở lại nghỉ chân suốt nửa ngày mà không phải lo sợ điều gì, cuộc dừng chân là để chúng tôi giải khuây phần nào với những người dân địa phương và nghề nghiệp của mình”
(Hòai Anh, sđd, tr.16)
Chạy song song và cắt ngang hai con đường Bạch Đằng và Cách Mạng Táng Tám có  nhiều con đường ngắn hơn, tạo thành mạng lưới giao thông của khu vực chợ Thủ. Đáng kể trước tiên nhất là hai con đường chạy cặp hai bên ngôi chợ, đường Nguyễn Thái Học và đường Đòan Trần Nghiệp.
Đường Nguyễn Thái Học từ nhà làng Phú Cường (nay là trụ sở  Ủy ban nhân dân phường Phú Cường) chạy  đến đường Bạch Đằng ở bờ sông, dài 356,9m. Đời Pháp, gọi là đường Garrido, sau 1954, đổi lại là Thái Lập Thành, rồi mới có tên Nguyễn Thái Học cho tới nay.
Thái Lập Thành là tên của vị Thủ Hiến Nam Kỳ, thay ông Trần Văn Hữu. Ngày 31 tháng 7 năm 1951, trong một lần tham dự buổi lễ tại tỉnh Sa Đéc, ông cùng viên Tư lệnh quân đội Pháp ở Nam phần là Charles Chanson bị ám sát chết bởi một cảm tử quân kháng chiến Việt Nam tên là Phan Văn Út. Sự kiện này gây rúng động cả Sài Gòn và Paris vào thời đó.
Đường Nguyễn Thái Học thời xưa có đường ray xe điện làm bằng gỗ cây, có móc nối vào dây điện phía trên, chạy đến nhà hàng và phòng ngủ Nam Bắc Hiệp. Phía bên kia, trước chợ đồng hồ có nhà ga cất hình chữ thập (sau 1945, khi nhà ga ngừng họat động đổi lại là phòng Thông tin, rồi là nơi bán sách vở, văn phòng phẩm). Xe điện có được ba toa, có bánh lái ở hai đầu xe, khi rời bến, tài xế chỉ việc đổi ra phía sau. Mỗi đầu xe có hai ngọn đèn làm tín hiệu, khi bật đèn trắng là đầu xe, còn đèn đỏ là phía sau xe. Khi xe chạy, sẽ có người đi bán vé, từng trạm sẽ có màu vé khác nhau thuận tiện cho nhân viên đi kiểm tra.
 Lại cũng có mấy người lớn tuổi, thưở nhỏ từng đi xe điện nay vẫn còn nhớ, người nói là xe điện; người thì bảo thực ra xe chạy bằng hơi nước. Gần đây đọc một bài viết của Sơn Nam, ta biết thêm:
 “Pháp cho mở thêm tuyến xe lửa (chạy hơi nước, sau chạy điện) từ Sài Gòn, Bà Chiểu, Hóc Môn lên Lái Thiêu, về sau nối lên Lộc Ninh nhằm chở mủ cao su về Sài Gòn).
(Sơn Nam, Người Bình Dương, Nam Bộ xưa và nay, nxb. Tp Hồ Chí Minh,1998, tr.154)
Chỗ này dường như ông Sơn Nam cũng có điểm lầm, thực ra lúc đó có hai đường rầy khác nhau, một cho xe lửa và một cho xe điện. Tuy nhiên kết hợp hết các thông tin này, có thể nói rằng đường xe điện lúc đầu chạy hơi nước, về sau tiến bộ hơn thì mới thực sự chạy điện, vì vậy mà các cụ kể lại không giống nhau vì họ đi ở các thời điểm khác.
 Qua khỏi chợ, xe chạy vòng qua Nhà Làng, vòng qua bến xe cũ (nay là công viên Phú Cường) xuống trạm Phú Văn, Búng, Cây Me, Lái Thiêu rồi mới qua cầu Phú Long.
 Đường xe điện này bắt đầu có giấy phép thực hiện vào ngày 27-7-1889, đưa vào sử dụng từ 17-09-1897, chạy từ Sài Gòn tới Gò Vấp, sau nối dài qua vùng Ba Thôn tới bờ kia của sông Sài Gòn ở Lái Thiêu. Sau khi cầu Phú Long xây dựng xong, đường ray đựơc nối dài lên chợ Búng, Phú Văn và tới chợ Thủ vào năm 1923. Đến năm 1945, vì chiến tranh, tuyến đường này ngưng họat động.
Trên dãy phố dọc theo con đường Nguyễn Thái Học nay còn lại vài ngôi nhà đã trên 70 năm, kiến trúc khá đẹp theo kiểu thời xưa. Một trong những căn đó là Thiện Đức Đường, của ông bang Kề, người Việt đọc trại ra là bang Cờ, người Phước Kiến. Nổi danh là người giàu có, ông còn được người thời nay nhớ đến vì giai thọai thi nhau đốt pháo với một ông bang giàu có nhà kế bên trong lễ hội rằm tháng giêng. Chuyện này được nhà văn Bình Nguyên Lộc kể lại trong truyện ngắn “Người tài xế điên”, với hai nhân vật mang tên “ông bang Sa”, chủ tiệm sắt và “ông bang Lếnh”, chủ tiệm gạo:
“Nhưng chắc chắn là cúng nhiều, kéo nhau đi ngòai đường và “cái đinh” của ngày lễ là đốt pháo đua. Ông cắc chú nào đốt nhiều hơn ông khác là ăn. Không ăn cái gì hết, nhưng được đồng bào của họ phục lắm.
Thực ra chỉ vài ông bang trong tỉnh lỵ mới dự cuộc đua đốt pháo này, vì phải đốt hàng mấy giờ liền, nếu không làm ăn lời to thì đừng mong đua với ai.”
(Bình Nguyên Lộc, Người tài xế điên, Tuyển tập BNL II, nxb. Văn Học, 2002, tr.794)
Về sau, vợ chồng bà bảy Lìn có thời gian sống ở ngôi nhà này trước khi dời qua căn nhà ở đường Đòan Trần Nghiệp, trước là tiệm thuốc tây Trần Tấn, nay là tiệm giày Bitis.
Đường Đòan Trần Nghiệp dài 366,7m, tên thời xưa là Rechaud, chạy song song với đường Nguyễn Thái Học, cũng bắt đầu và kết thúc như con đường này. Vè xưa tả lại cảnh vật trên đường  khá sinh động:
“Có tiệm cà phê
Có người quạt nước
Rủ nhau bày sọan
Có tài có tuổi
Có may có rủi
Có vận có thời
Ngồi nghỉ một hơi
Bước vô tiệm hút
Người hút pho pho
Kẻ thì nằm co
Người thì nằm thẳng
Ba tiệm đăng đẳng
Người ta rất đông”
Chợ Thủ xây cất theo mô hình một chiếc tàu, nên dân chúng có người còn gọi vui là “Hàng không mẫu hạm”, nếu vậy thì hai con đường cặp hai bên có thể mường tượng như hai dòng nước chảy hai bên mạng tàu khi lướt sóng trên đại dương, nhứt là khi ngắm nhìn từ trên cao, lúc xe cộ nối đuôi nhau dập dìu trên hai con phố. Các bức ảnh còn lưu lại từ hồi đầu thế kỷ cho thấy thời trước chỉ là những ngôi nhà thấp đơn sơ, có lẽ phải đến khi chợ được xây dựng lại vào đầu thập niên 30, hai con đường được trải nhựa thì các ngôi nhà lầu đẹp mới thi nhau lần lượt mọc lên.
Nằm bên trái đường Đòan Trần Nghiệp có vài con đường chạy song song với nó, gần nhất là con đường ngắn dài khỏang 100m bắt đầu từ đường Hùng Vương đến đường Trừ Văn Thố. Trước năm 1980 có tên Triệu Ẩu, sau đổi thành Bà Triệu. Trên đường này có hai căn nhà xưa, ở góc đường là nhà của ông chủ rạp Thanh Bình, giữa đường là nhà của dòng họ ông Đốc phủ Biện. Hai căn nhà này nay vẫn còn, nhưng có vẻ cũ kỷ, hoang phế. Có một thời, con đường này còn là bến xe ngựa, mãi đến sau 1985, khi người đi xe ngựa thưa thớt dần thì mới hết.
Kế tiếp là đường Văn Công Khai. Thời Tây gọi là Rue Daniel, sau 9/3/1945 Nhựt đảo chánh Tây thì đổi lại là Rue des Poteries. Dưới chế độ miền Nam đặt lại là Võ Tánh, đến 1980 có tên là Văn Công Khai cho tới nay. Đường dài 487,7m từ đường Hùng Vương đến đường Bàu Bàng. Đầu đường có ngôi nhà không to lắm nhưng kiến trúc cũng khá đẹp là nhà của ông phán Dần, làm lục sự tòa án. Trên đường có nhiều trường học, như trường tiểu học Trí Tri (ngôi nhà xưa bên cạnh phòng khám đa khoa thị xã hiện nay, ngôi nhà này nguyên của ông Trần Văn Lý, còn gọi là ông Tư Lý, cũng từng có lúc là phòng khám bệnh của bác sĩ Rạng, con ông bà Năm Chi, mua lại của ông Ba Cảnh ), trường Chim Non (Thầy Giáo Thọ dạy, nổi tiếng nghiêm khắc), trường Nghĩa An của người Hoa, trường trung học tư thục Nghĩa Phương (do thầy Lê Bích, một kiến trúc sư từ Sài Gòn về là Hiệu trưởng). Trường trung học tư thục Nguyễn Trãi do thầy Nguyễn Tiên Sanh sáng lập năm 1955, một trong những ngôi trường đầu tiên của tỉnh, nằm cách đường cũng chỉ vài chục mét Đường từng có tên là Rue des Poteries, tiếng Việt là đường Lò Chén, có lẽ vì nếu đi thẳng riết trên con đường này, người ta sẽ đi qua vùng lò chén nổi tiếng của người Tàu ở Chánh Nghĩa, Bình Dương.
Thứ ba là đường Trần Tử Bình, trước năm 1999 có tên là Phan Văn Hùm. Đường bắt đầu từ  đường Cách Mạng Tháng Tám đến đường Lý Thường Kiệt, dài 343m.Ở đọan có đường Hùng Vương cắt ngang tạo thành ngã tư, có tên là ngã tư Quốc Tế. Không ai nhớ chính xác tên này có từ bao giờ và tại sao lại gọi như thế, nhưng từ xưa đây đã là nơi có nhiều tiệm cà phê, tiệm kem và quán ăn có tiếng, người qua lại khá tấp nập. Giai đọan giữa thập niên 60, ngòai số khách người Việt, đi với lính tráng còn có nhiều người Mỹ, Tân Tây Lan…có lẽ cái tên Ngã tư Quốc Tế ra đời trong bối cảnh này.
Từ đường Nguyễn Thái Học, có các con đường chạy cùng chiều song song bên cánh phải: Đường Đinh Bộ Lĩnh, đường Ngô Quyền, đường Nguyễn Văn Tiết.
Đường Đinh Bộ Lĩnh, kết nối hai con đường Trần Hưng Đạo và Bạch Đằng, dài 339,5m, có tên đó từ 1945 đến nay. Khu vực đầu đường trước 75 là trụ sở của sở Học Chánh, qua phía ngả tư trở đi là trại giam, tường xây cao, đến cuối đường công trình kiến trúc đáng kể có nhà Bưu Điện, xây từ thời Tây, dân gian còn gọi nhà dây thép. Phiá tay trái của đường có ngôi nhà cổ của ông nha sĩ Trần Công Vàng, do ba của ông là Hội đồng Cần xây cất từ năm 1889, nay vẫn còn hầu như nguyên vẹn.
“Từ đó đi lên
Ông cò ở trên
Khám đường ở dưới
Tường xây cao dữ
Lại gắn miểng chai
Từ đó đi ngay
Xuống phông tên nước
Đi xuyên tuốt luốt
Tới nhà việc Phú Cường
Nhà cất bằng tường
Gắn máy radio”
Đường Ngô Quyền, tên thời Tây là Commandant Henri, nối hai con đường Phạm Ngũ Lão và Bạch Đằng, dài 539, 5m. Khởi từ đầu đường, phía tay trái là phiá sau của nhà thờ chánh tòa Phú Cường, phía tay mặt có khu trượt patin Tứ Hải, họat động nhộn nhịp được thời gian ngắn thì ngưng do lệnh cấm trò chơi này của chính phủ trước 75. Chạy dài theo con đường, qua ngả tư piscine (gần đó có một hồ bơi) đến ngả ba có con đường Nguyễn Tường Tam rẻ phía tay mặt chạy lên Thành Quan, ngang ngôi nhà to và đẹp của ông Cả Luận, một thầy thuốc Đông y nổi tiếng, đường này nay đổi lại là Ngô Chí Quốc, thời trước dân địa phương chỉ gọi là đường Đắp Mới, dù sau 1963 đã có tên là Nguyễn Tường Tam. Cũng trong năm này, cây cầu bắt qua con rạch nhỏ được làm lại kiên cố hơn, bọn trẻ con trong xóm thích đứng trên thành cầu nhảy xuống nước bơi lội, nơi đây trở thành địa điểm vui chơi của lũ nhỏ một thời. Qua khỏi cầu, phía tay mặt có nhà ông Năm Hí là một lò võ cổ truyền đã đào tạo được nhiều đệ tử.
Từ ngả ba rẻ lên đường đắp mới, phía tay trái đường Ngô Quyền là khu cư xá cảnh sát rồi đến khu cư xá sĩ quan gần tới bờ sông, còn tay mặt là khu xóm đạo, tức khu cư ngụ của người Công giáo. Hồi ký của ông Grammont mô tả khu vực này vào đầu thập niên 60 thế kỷ 19 như sau:
“Ở phía Bắc, cánh rừng thiêng danh tiếng là nơi tập hợp các họ đạo mới thành lập.”
(Grammont, Hoài Anh dịch, Thủ Dầu Một dưới mắt người Pháp, Xưa và nay 45B, tr. 15).
Một tài liệu khác cho biết rõ hơn về xóm đạo này. Trong bức thư của linh mục Phêrô Nguyễn Đức Nhi, cha sở người Việt Nam đầu tiên của họ Thủ Dầu Một  viết cho linh mục Poinat vào năm 1910 có đọan:
“Vốn trước kia, Đại Pháp qua Nam kỳ thì chưa có họ Thủ, hoặc có một hoặc hai người đạo hạnh lếu láo theo ở giữa kẻ ngọai hoặc có kẻ trốn cơn bắt đạo, đến đó ẩn tránh vậy mà thôi. Đến lúc đại Pháp đánh lấy thành Biên Hòa là năm 1861, thì qua chiếm cứ Thủ Dầu Một, vậy thì bổn đạo Tân Triều, Bến Gỗ, Búng, Lái Thiêu, Bến Sắn đổ tràn đến Thủ hoặc nương bóng cờ Langsa khỏi Trào Nam bắt bớ vì đạo, hay đặng buôn bán với người ngọai quốc. Bởi vậy sinh ra đông người có đạo ở đó. Tôi tưởng gốc họ Thủ như vậy”
(Kỷ yếu giáo phận Phú Cường 1965-2005, tr. 206)
Những người miền Bắc đạo Công giáo di cư năm 1954 có thể cũng đã gia nhập thêm vào khu vực này, nhưng gốc gác của xóm đạo, theo mô tả của các đọan văn trên cho thấy bắt nguồn từ xa xưa lắm. 
 Con đường này còn là lối đi chính dẫn lên trường Sĩ Quan Kỹ Thuật Công Binh ( xưa gọi thành Săng Đá (Vassoigne), do phát âm trại từ chữ soldat mà ra) do vậy là một trong những con đường khá đông đúc của một thời, nhất là vào những ngày cuối tuần, những người lính quần áo ủi hồ phẳng phiu dáng đi mạnh mẽ cùng với những người đi lễ nhà thờ quần áo tề chỉnh rảo bước, tà áo dài đủ màu sắc của các cô gái thướt tha theo gió đã làm cho phố phường như xinh đẹp hẳn lên.
Đường Nguyễn Văn Tiết, trước 1980 là Châu văn Tiếp, bắt đầu từ cuối đường Bạch Đằng, chạy dài 1276m thì gặp đại lộ Bình Dương, ngang qua địa phận của hai phường Phú Cường và Hiệp Thành. Tại điểm khởi đầu có một công viên nhỏ, trước đây là Miễu Tử Trận, được xây dựng từ thời Tây để tưởng nhớ những người Việt bị Tây bắt đi đánh trận chết ở nước ngòai, trong cuộc Đại chiến lần thứ nhất.
“Nhìn bốn cây cột
Có bốn con rồng
Chữ đề ở trong
Là Miễu tử trận
Khỏang năm 1970, tại đây có một cái tủ đựng máy vô tuyến truyền hình, ban ngày khóa lại, đến tối thì có người mở ra cho dân chúng trong xóm đến coi, ngồi chen chúc trên bãi cỏ. Hồi đó máy vô tuyến  truyền hình, nay gọi tivi, rất hiếm, nên dù phải ngồi dưới đất, ai nấy cũng say mê, nhất là vào những tối thứ sáu, thứ bảy có chương trình cải lương. Tại đây cũng là bến xe ngựa, vì rẻ về hướng trường Công Binh, phía tay trái có một ngôi chợ kiểu tiền chế do lính Tân Tây Lan (New Zealand) dựng lên, gọi là chợ Tân Tây Lan. Từ ngôi miễu, có :
Có đường đắp ngăn
Chạy thẳng thành quan
Có đường đắp ngang
Đi qua cầu dốc…”
Con đường mỗi lúc một cao dần, đi ngang qua khu ký túc xá của quân đội Tây, nằm phía tay trái, gọi là Thành Quan, công trình kiến trúc đó nay vẫn còn, là một di tích quý hiếm của tỉnh ghi dấu thời kỳ thuộc địa ảm đạm của địa phương. Phía tay phải, đối diện khu thành Quan này có một ngôi nhà nằm giữa khu vườn có trồng nhiều cây kiểng, khoảng năm 1973 được chọn làm cảnh quay bộ phim Ngọc Lan do nam diễn viên Bảo Ân và Thanh Lan thủ vai chính. Người trong xóm kéo đến chen chút xem hai tài tử điện ảnh nổi danh đóng phim.
Khi vượt qua quốc lộ 13 cũ, đường dẫn vào một xóm quê gọi là xóm chùa Đức Sơn vì phía bên trái, cách đường không tới 100m có ngôi chùa cổ xây từ thế kỷ 18 (1775) mang tên đó.
Ngòai các con đường vừa kể, có vài con đường nữa cũng đáng nhắc đến.
Đường Nguyễn Du, trước năm 1945, tên Tây là Rue La Bataille, dài chỉ 138,1m, từ Cách mạng Tháng 8 tới đường Yersin. Đường này tuy ngắn, nhưng dân ở đây ai cũng biết vì có ngôi chùa Bà, vào dịp rằm tháng giêng thì chen chân không lọt, trống múa cù rộn rã ngày đêm. Xung quanh đó lại có ba ngôi trường, trường Nam (trường tiểu học Nam Châu Thành, nay là trường Nguyễn Du), trường Nữ (trường tiểu học Nữ Châu Thành), hai ngôi trường xưa và lớn nhất tỉnh, và trường tư thục Đăng Khoa do thầy Nguyễn Văn An (ông Đốc An) lập. Tại trường này có một nữ sinh từng theo học một thời gian trong khóa hè, tên là Nguyễn Thu Cúc, sinh năm 1947, quê quán Bình Long, về sau trở thành ngôi sao ca nhạc nổi danh của miền Nam là Mai Lệ Huyền.
Sau năm 90, khu nhà trước chùa Bà bị giải tỏa để làm công viên, quang cảnh nơi đây trở nên rộng rải, thóang đảng hơn, và vào ngày rước cộ Bà, cũng đở cảnh chen lấn như trước.
Đường Phạm Ngũ Lão, xưa gọi là Rue des Jardins, từ đường Yersin, chạy 1280m thì đụng đại lộ Bình Dương. Ở đầu đường, đổ xuống một con dốc, phía tay trái là mặt sau của nhà thờ Chánh tòa Phú Cường, từ giữa thập niên 60 đã xây dựng ngôi trường trung học Thánh Giuse. Phía tay mặt là ngôi biệt thự khá đẹp của một ông quan Tây làm việc tại tỉnh trong những thập niên đầu thế kỷ. Đường thường được dân gian gọi là đường Giếng Máy hay đường Bưng Cải.
“Xuống tới đầu chợ
Trại cưa trước mặt
Thổ mộ có hàng
 Rủ nhau sọan bàn
Đi về Bưng Cải”
Đầu và cuối con đường là hai cái dốc rất cao, phía giữa, như một thung lũng, là vùng đất thấp, có nhiều mạch nước ngầm phun lên, từ ngữ địa phương gọi là mội, nước trong, ngọt. Người Pháp xây một nhà máy khai thác nước ở vùng này để phục vụ cho khu vực chợ Thủ, do vậy mà có từ Giếng Máy để phân biệt với các mội nước tự nhiên trong vùng. Ông Nguyễn Đình Đầu nhận xét:
“Tòan tỉnh có nhiều mạch nước ngầm tốt. Chính tòa bố đã dùng nước giếng ngầm dẫn từ xóm Bưng Cải cách 800m về. Một lầu nước xây trên đồi cao cùng với 23 phông-ten ở rải rác cung cấp nước cho cả thôn Phú Cường. Nước Bưng Cải rất tốt, không phải các tỉnh khác của Nam Kỳ đều được nước tốt như vậy.”
(Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử Sông Bé, Địa chí tỉnh Sông Bé, nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.212)
“Lầu nước xây trên đồi cao” mà tác giả đề cập, được mô tả vị trí chính xác là:
“Đài nước này rất gần trụ sở thanh tra, ở trên chỗ cao trông ra sông. Độ cao của nó cho phép cung cấp nước đáp ứng nhu cầu cho tỉnh.”
“Nước do các nguồn nước của Bưng Cải cung cấp có chất lượng tuyệt hảo. Đó là một thuận lợi lớn cho tỉnh. Ở khắp vùng Nam Bộ, nước ăn uống hầu như không tốt cho sức khỏe dân chúng”
(Địa chí Thủ Dầu Một-1910, tr.6, Thủ Dầu Một xưa qua địa chí 1910 và bưu ảnh, Hội khoa học lịch sử Bình Dương,2007)
Đây là một trong những con đường quê hiền hòa và nên thơ nhất của thị xã. Hai bên đường dẩn đến cây cầu nhỏ là hàng cây dầu cổ thụ cao vút, kế đó là hai mương nước trong veo, nhìn thấy rõ những đám rong xanh biếc và từng đàn cá đủ màu sặc sở nhởn nhơ bơi lội.Thời đó không hiểu sao người ta không bắt cá, không chích điện để tiêu diệt sạch sẽ tất cả các lòai sinh vật sống dưới nước như bây giờ. Nhà cửa thưa thớt, nằm ẩn mình giữa những vườn cây trái xanh um, mùa hè, ve kêu ran cả trời đất, trái chín lủng lẳng trên cành rất đẹp mắt.Giữa khung cảnh của làng quê nghèo hiền hòa mộc mạc ấy, ngôi nhà của ông Huyện Tình chợt hiện ra tráng lệ, uy nghi. Năm tháng trôi qua, nó vẫn đứng yên như vậy như thách thức với thời gian, chỉ có rêu mốc đóng trên mái ngói và tường vôi, nhất là trong những buổi chiều nắng vàng, là gợi cho người ta khó ngăn được cảm giác bùi ngùi mơ hồ, chạnh lòng  trước những dâu bể và tàn phai của muôn vật ở cỏi trần gian này. Người xưa đâu tá?
Đường Trừ Văn Thố, tên thời Tây là Rue Lacotte, ( có tài liệu ghi là Moriet, tên một sĩ quan Pháp), giai đọan 1957-1980 đổi tên là Lê Văn Duyệt, dài 138,3m gồm hai đọan, nối đường Văn Công Khai và Đinh Bộ Lĩnh, bị cách ngăn bởi khu chợ Thủ. Trên đường này, xưa Tây cho trồng hàng me hai bên đường, dấu vết nay vẫn còn. Một tiệm mì nổi tiếng trước 75 bán ở lề đường có thương hiệu là mì Cây Me, nay dời qua bán ở đường Văn Công Khai. Có vài ngôi nhà đáng chú ý như nhà bà Bảy Lìn, nay là nhà hàng Bông Sen, đối diện có khách sạn Bông Sen, lúc đầu dành cho Mỹ thuê, trước cũng thuộc bà Bảy. Kế bên nhà bà Bảy có ngôi nhà cũng khá xinh xắn là nhà của ông phán Nhơn, làm Đệ Tam Tham Vụ trong tòa Đại Sứ của chế độ miền Nam ở nước ngòai. Sau 75 ông bán nhà dời về Bình Chuẩn và qua đời nơi đó ít năm sau. Phiá bên kia chợ có khu nhà nghỉ Phi Long, có nhà ông đốc Di, một nhà giáo danh tiếng của thị xã trước đây, và nhà thuốc của đông y sĩ Nguyễn Văn Khê, thường gọi thầy Bảy Khê.
Đường Lý Thường Kiệt, tên thời Tây là Rossigmeux, dài 813,4m từ đường Cách Mạng Tháng 8 đến đường Nguyễn Thái Học. Trên đường này nhà cửa san sát, có nhiều quán ăn, tiệm nước, có nhà bào chế thuốc Võ Văn Vân nổi tiếng cả Đông Dương một thời, và gần đó là rạp hát Bầu Liêu, rạp hát đầu tiên của chợ Thủ chuyên trình diễn các tuồng hát bội. Biệt thự tư nhân có nhà ông Đốc phủ Biện (Hạ Quang Biện), về sau có lúc là trụ sở Bảo an đoàn (1959), ông Phạm Ngọc Thảo (1922-1965), Tỉnh Đòan Trưởng, từng ở đây, nguyên mẫu của nhân vật Nguyễn Thành Luân trong bộ phim tình báo Ván bài lật ngửa. Con gái ông bà Đốc phủ, vợ của tiến sĩ Trần Văn Trai, từng lập ra hãng Mỹ Vân phim, có công phát hiện ra minh tinh Thẩm Thúy Hằng và thực hiện bộ phim Người đẹp Bình Dương tạo nên thanh danh cho phụ nữ tỉnh nhà. Căn nhà ông Đốc phủ Biện xưa đó, từ sau 1975 là trụ sở hội Chữ Thập đỏ tỉnh Bình Dương.
Đường Hai Bà Trưng, tên thời Tây là Outrey, sau 1954 đổi lại là Trưng Vương, đến ngày 20-04-1998 Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bình Dương ra quyết định số 52/1998/QDUB đặt lại là đường Hai Bà Trưng cho đến nay. Con đường này dài 250m, nối hai con đường Văn Công Khai và Đòan Trần Nghiệp, thuộc phường Phú Cường.
Outrey là quan đầu tỉnh Thủ Dầu Một vào đầu thế kỷ 19, từ năm 1901, ông đã cho xây dựng trường Bá Nghệ (École des arts) trước chợ Thủ. Về sau trường này được dời về vị trí hiện nay ở đường Bạch Đằng. Đây được xem là ngôi trường mỹ thuật sớm nhất ở nước ta. Trước khi được bổ nhiệm làm quan đầu tỉnh TDM, ông từng làm cũng chức vụ ấy ở Vũng Tàu, là người có công vạch kế họach thiết kế Vũng Tàu thành trung tâm nghỉ mát miền biển.
Người Bình Dương khó quên con đường này, vì giữa đường có rạp hát Trần Trung Hí Viện, về sau đổi tên là rạp Thanh Bình, nơi diễn các tuồng hát bội, cải lương, đại nhạc hội và về sau còn chiếu phim. Bình thường đây là khu phố của người Tàu, với vài tiệm làm mì, bán tương, nhang đèn ở đầu đường, ở bên lề, có một vài ngừoi Việt bán truyện tranh, bán dế, cá lia thia…khách hàng chủ yếu là bọn trẻ con, nhưng mỗi khi có đòan hát về, nhất là vào mấy ngày Tết thì con đường trở nên đông đúc, náo nhiệt, rộn rả ngày đêm. Ở góc đường tiếp giáp với đường Võ Tánh là công xi rượu của bà Bảy, nay không còn.
“Từ đó xuống sông
Tới nhà Út Chánh
Có đường đắp ngắn
Đến rạp Trần Trung
Chưng hình mỹ nữ
Bán đồ sành sứ
Đông đảo chỗ này”
Kể đến đây, dĩ nhiên là chưa nói hết về các con  đường ở thị xã, hy vọng sẽ có dịp bổ sung, khi sưu tập thêm được nhiều tư liệu.
“Mênh mông đại hải
Khắp cả châu thành
Tôi không biết nữa…”
(Vè chợ Thủ)
Viết về đường chợ Thủ như trên, điều làm người viết lo lắng nhất là sự chính xác của những gì trình bày. Chúng tôi đã cố gắng thu thập từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, quan trọng nhất là ghi lại từ lời kể của các cụ cao niên nay còn nhớ chuyện ngày cũ, chỗ được chỗ mất. Chúng tôi đã nhờ nhiều cụ đối chứng, kiểm tra, tuy vậy thời gian đã quá lâu thì những gì còn lưu giữ trong ký ức khó tránh được sự nhầm lẫn. Chúng tôi sẽ tiếp tục công việc của mình, và rất mong được sự giúp đở của tất cả những ai còn nhớ về chuyện cũ ở Bình Dương.
Kể chuyện quá khứ xa xăm, mù mịt, mong nhất là ít điều sai sót. Muốn vậy, phải nhờ cậy đến sự chỉ bảo của nhiều người.
 
Tác gia?: Hoàng Anh
(06-07-10)

Miễu Tử Trận

Trong bài vè chợ Thủ ngày xưa có đoạn:

“Nhìn bốn cây cột
Có bốn con rồng
Chữ đề ở trong
Là Miễu Tử Trận
Có đường đắp ngắn
Chạy thẳng Thành Quan
Có đường đắp ngang
Đi qua đầu dốc…” (1)

Ngôi Miễu Tử Trận như mô tả nằm trên một khoảng đất rộng ở đầu đường Bạch Đằng; ngay tại ngã ba, quẹo phải lên trường Sĩ Quan Công Binh, quẹo trái ngang qua Thành Quan, xưa gọi thành Săn Đá (soldat), là hai di tích lịch sử của tỉnh từ thời Tây còn lại. Miễu hình khối chữ nhật, xa trông như một cái tháp cao; tọa lạc trên khu đất rộng 90m2, nơi này trước đây là trung tâm ấp Chánh, xã Chánh Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Bình Dương. Ở bên đường lên trường Công Binh vào giữa thập niên 60 thế kỷ trước có một ngôi chợ nhỏ kiểu tiền chế do người New Zealand xây dựng, dân địa phương gọi là chợ Tân Tây Lan. Gần miễu có vài chiếc xe ngựa đậu lưa thưa để chờ đưa đón khách.
Bọc xung quanh miễu là một hàng rào thấp bằng cọc sắt, hình vòng tròn. Nền đắp khá cao, lát gạch bông. Ở bốn mặt  làm giống như nhau, đều có lối đi lên bực tam cấp, hai bên có lan can chạm hình rồng uốn khúc hướng mặt ra ngoài, nét điêu khắc đơn giản chứ không tỉ mỉ giống hình rồng thường thấy trên tranh vẻ. Trước cửa có tám cây cột tròn bằng xi măng chạm hình rồng, hai bên cạnh vách tường lại có khắc câu đối bằng chữ Hán chạy dọc từ trên xuống. Trên bốn bức tường bên trong có hình bốn con vật linh theo truyền thuyết Trung Hoa là long, lân, quy, phụng. Nóc lợp bằng ngói ống, gần mái có chạm ba chữ “Miếu Tử Trận”. Chung quanh có nhiều cây cao già cỗi tỏa bóng mát, tạo cho không khí nơi đây vẻ trang nghiêm và tĩnh lặng.
Chánh giữa miễu có một tấm bia cao 3m, rộng 1m5. Bia có hai mặt: một, dùng để khắc tên các chiến sĩ người Việt ở Thủ Dầu Một; mặt bên kia ghi tên những người Pháp trước ở tỉnh này, sau cũng hy sinh trong Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918).

 

Thời đó, để đủ lực lượng đương đầu với Đức, vào tháng 11 năm 1915 Pháp đã ban hành lệnh tuyển người bản xứ tại Đông Dương. Sang tháng Giêng năm sau, triều đình Huế lại có dụ ban thưởng 80 đồng bạc Đông Dương cho những ai nhập ngũ. Đến năm 1918, khi chiến tranh kết thúc thì đã có tổng cộng 48.922 người dân Đông Dương làm lính (30.425 người tại Âu châu hoặc bắc Phi), và làm công nhân (ouvriers non spécialsés, viết tắt là ONS, xưa gọi là lính thợ, hay công binh). Do bị xem là có thể hình và thể lực nhỏ thó không thich hợp để cầm súng như các chiến binh Phi châu giống như người Senegal, Algeria...hầu hết người Việt Nam bị đưa vào làm những công việc nặng nhọc vất vả như làm công nhân cầu đường, xây đắp chiến lũy hay xưởng chế tạo đạn dược. Khi tàn cuộc chiến, kể cả lính và thợ, có 1.548 người, trong số này nhiều người là dân Thủ Dầu Một, đã hy sinh cho nước Pháp. Theo các vị bô lão xưa còn nhớ thì người Pháp cho xây cất ngôi miễu này vào khoảng năm 1922, để tỏ lòng tri ân những người Việt và số người Pháp ở địa phương đã chết vì đất nước của họ.
 

Hàng năm, vào ngày lễ Các Thánh 1-11, người Pháp tổ chức trọng thể lễ tưởng niệm chiến sĩ trận vong có sự tham dự của viên quan chủ tỉnh (Chef de province, trước năm 1899 gọi là Chánh tham biện) người Pháp và 12 Hương chức hội tề địa phương. Quân nhạc sắp thành hai hàng hòa tấu bản nhạc truy hồn tử sĩ và kết thúc bằng nghi thức đặt vòng hoa do đích thân chủ tỉnh hành lễ.
 Năm 1964, ngôi miễu được sửa sang lại, tên tuổi các chiến sĩ Việt-Pháp trên tấm bia bị xóa đi; ba chữ “Miễu Tử Trận” sửa lại thành “Đài Chiến Sĩ”. Từ đó hàng năm, cũng ngày 1-11, lúc bấy giờ gọi là ngày Quốc Khánh, chính quyền cũng tổ chức lễ truy điệu, nhưng cho vong hồn những chiến sĩ tử trận trong cuộc chiến tranh đương thời.
Trước miễu, cũng trong giai đọan này, có đặt một cái thùng, bên trong để một cái vô tuyến truyền hình (tivi). Ban ngày khóa lại, chiều tối thì mở ra cho dân xung quanh đến coi. Hồi đó truyền hình còn rất hiếm, cả xóm chỉ vài nhà khá giả mới có, để được vô nhà họ lại rất khó khăn nếu không phải là bà con quen biết. Vì vậy có một cái truyền hình công cộng cho coi tự do thì dân chúng rất thích nên ban đêm, nơi đây trở thành tụ điểm giải trí tập trung khá đông người. Xung quanh miễu mát mẻ, lại rộng rãi, ban ngày trẻ con trong xóm thường kéo đến chơi đùa uyên náo, cảnh tươi vui, hiền hòa và cũng khá nên thơ. Mặc dù thỉnh thoảng bọn trẻ con lại giật mình vì tiếng đại bác từ trường Công Binh gần đó vọng lại.

 

Sau 1975 được vài năm, ngôi miễu bị đập bỏ, nhưng vẫn còn chừa lại phần nền có bốn lối đi với tám con rồng chạm hai bên như đang bò xuống tìm lối thoát. Vài năm sau nữa thì phần nền này cũng bị phá bỏ hoàn toàn. Nay nơi đó là một công viên, không còn dấu vết chi của hình bóng cũ, những người mới đến Bình Dương những năm về sau này ngơ ngác khi có ai nhắc đến tên ngôi Miễu Tử Trận. Với những người sinh sống lâu năm ở thị xả Thủ Dầu Một thì trái lại, Miễu Tử Trận là một hình ảnh khá thân quen. Có lần, nhớ đến ngôi miễu nay không còn, người viết cảm tác mấy câu thơ:

Miếu cổ vươn cao ở cuối đường
Cây xanh toả bóng thoảng trầm hương
Bao hồn tử sĩ về nương náu
Bốn phương thân xác vùi sa trường

Miếu cổ bây giờ là công viên
Rồng vút bay rồi đất hết thiêng
Sống phải xa quê chết xa mộ
Nay biết tìm đâu một cõi riêng?

Mặc dù đã bị đổi tên từ năm 1964, nhưng dân địa phương vẫn gọi theo tên cũ là “Miễu Tử Trận” mà không biết đến tên mới của nó. Có phải vì vậy chăng mà đến ngày 20-08-1973, Đại tá tỉnh trưởng là ông Nguyễn Văn Của đã cho làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng một Đài Tử Sĩ mới tại ngả ba gần trường trung học Võ Minh Đức ở Phú Thọ hiện nay. Đồ án xây cất do Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam và Nguyễn Văn Minh thiết kế. Đài có hình một bát nhang đường kính 4m55, với ba cây nhang cao 15m75 tỏa hình trên nền trời. Đây là biểu tượng của lòng biết ơn đối với những người đã nằm xuống, vừa có thể hiểu là dấu hiệu của tam tài (thiên, địa, nhân), hay ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa; hoặc ba đức tính cần có của người quân tử là nhân, trí, dũng…tùy theo ý thích hay sự suy diễn của mỗi người. Ngã ba này từ đó được dân chúng gọi là ngã ba Cây Nhang. Công trình được khánh thành vào ngày 02-11 năm 1973 và cũng chung số phận với Đài Tử Sĩ cũ, nó đã bị đập bỏ và san bằng sau 1975 không bao lâu.
Điều đáng nói thêm là có một ngôi miễu tương tự với Miễu Tử Trận, nhưng không phải ở Việt Nam mà nằm ở tận Paris, nước Pháp.Thời xưa, nó được gọi là Hoài Nam Nghĩa Sĩ Miếu.
Ngôi miễu này nằm ở khu vực vành đai Paris (đường 45bis, đại lộ Belle-Gabrielle, ở Nogent-sur-Marne), trong một vườn hoa rộng 4,5 mẫu, nơi được ví là buồng phổi của Paris (Le jardin tropical du Bois de Vincennes).
Vài tài liệu ở Việt Nam có đề cập đến công trình này:
_Trong bài “Hành cung Tây cống” của bác sĩ Dương Đình Hùng, đăng trên số báo xuân Tuổi Trẻ năm Kỷ Mão, 1999, trang 31, có những đoạn như sau:
“Trong thời kỳ lệ thuộc chắc không có ông vua nào tỏ lòng “trung hiếu” bằng vua Khải Định. Để được Tây tin mình hơn và thương đứa con duy nhất của mình…như con nuôi của Tây, năm 1922 Đông Cung Thái Tử Bảo Đại được gửi đi Pháp để nhờ cha cố Tây uốn nắn, lo cho phần hồn. Độc đáo hơn, để tham dự hội chợ các nước thuộc địa tại thành phố cảng Marselle, miền Nam nước Pháp cũng vào năm ấy, ông vua Khải Định có ý tưởng  độc đáo, muốn chơi trội hơn các anh bạn châu Phi, Trung Đông, Hải Đảo…ông cho chở nguyên cả một hành cung cùng theo với mình, trước là tham dự sau là “Cống Tây”
“Đó là một hành cung lộng lẫy, một kiến trúc lớn được nghiên cứu và thực hiện cực kỳ tỉ mỉ hơn bất cứ kiến trúc cung điện nào ở Huế, một cung điện lớn bằng nhà hát lớn Sài Gòn về bề ngang cũng như chiều dọc, tưởng như cao gấp cả hai lần những kiến trúc cùng loại trong nội thành Huế. Muốn có được một công trình như vậy chắc chắn vua Khải Định đã tuyển chọn những nghệ nhân xuất sắc nhất cả nước từ mấy năm trước ngày đêm đục đẽo chạm trổ. Gỗ quí thì khỏi nói rồi, phải đẹp và trường thọ với thời gian.
Tất cả công trình ấy được tháo rời, cùng với các nghệ nhân, cùng một êkíp thợ nề, thêm các tay khắc họa…xuống tàu đi Tây dự hội chợ các chư hầu đế quốc Pháp, khai mạc ngày 22-05-1922. Triển lãm xong, như dự định, vua Khải Định biếu hành cung cho Tây. Đương nhiên Tây thích lắm, khen sáng kiến của vua An Nam, phục trí thông minh và bàn tay khéo léo của nghệ nhân xứ Việt.
Một thời gian sau, tất cả “hành cung cống Tây” ấy được chuyển về dựng lại tại khu rừng Vincennes ở Paris.”
Thế nhưng những mô tả về ngôi hành cung chỉ là những gì tác giả được nghe nói lại, bởi khi ông đến nơi thì nó đã bị cháy rụi vài năm trước đó:
“Khi tôi đến đây thì hành cung đã thành tro bụi…
Hành cung cống Tây không còn nữa, chỉ còn chơ vơ mấy cổng tam quan dẫn lối vào cung. Còn lại bức bình phong cô đơn buồn ngó ngôi chùa gần đó, ngôi chùa có ông Phật lai Tây!”
Không lâu sau bài viết này, có bài phản hồi đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay của tác giả Nguyễn Đình Đầu (?), đưa ra nhiều ý kiến khác, tiếc rằng nay chúng tôi không có trong tay để đối chiếu.
_Một tài liệu khác ở địa phương, lại đưa ra những dữ kiện mới:
“Với lối kiến trúc độc đáo của chùa Hội Khánh đã làm cho người Pháp chú ý, nên vào năm 1920 nước Pháp có mở cuộc triển lãm hội chợ tại Marseille, người Pháp đã mang mô hình chùa Hội Khánh và những bộ tượng La Hán, Thập điện sang triển lãm và cũng trong dịp này Toàn quyền Đông Dương Pháp thỉnh cầu Hòa thượng Từ Văn sang làm chủ lễ cầu siêu cho những người đi lính thuê cho Pháp.” (2)
Ở đây có một điểm cần lưu ý, là vào năm 1920 Pháp không tổ chức kỳ triển lãm thuộc địa nào cả. Những cuộc triển lãm loại này bắt đầu từ năm 1866, đến lần cuối cùng là vào năm 1948. Trong khoảng thời gian này có một vài năm không tổ chức, và năm 1920 là một trong những lần cách khoảng đó. Hội chợ, hay cuộc Đấu Xảo tại Marseille như được đề cập trong đoạn văn trên đây, thực ra diễn ra vào năm 1922.
Theo sự tìm hiểu riêng của chúng tôi, căn cứ vào các tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, trong công viên vùng ngoại ô Paris có một ngôi đền nhưng không giống với những điều đã được hai tác giả trên nói đến:
Vào năm 1905, quan chủ tỉnh Thủ Dầu Một là Ernest Outrey đã ra lệnh làm cấp tốc một ngôi nhà bằng gỗ dựa theo kiểu thức của ngôi đình Bà Lụa, sau đó chuyên chở bằng tàu đem qua Pháp để tham dự cuộc triển lãm Colonial Exhibition ở Marseille tổ chức vào năm 1906.
Năm 1907, chính quyền Pháp lại đem ngôi nhà xưa của Annam này lên triển lãm tại vùng ngoại vi Paris (at the Jardin colonial of Nogent-sur-Marne).



(L’ancien temple du jardin tropical)

Đến năm 1917, ngôi nhà này được chọn làm ngôi đền tưởng niệm những người lính Đông Dương đã chết trong cuộc chiến tranh thế giới Đệ nhất (the Temple du Souvenir Indochinois).
Vào tháng giêng năm 1918, người thành lập hội “Đông Pháp kỷ niệm” (Le Souvernir Indochinois) cho biết mục tiêu của tổ chức là: “Thiết lập trên đất Pháp, và nếu có thể, ở Đông Dương, một hoặc nhiều ngôi chùa tưởng niệm, giống như một Pantheons Đông Dương, nơi có những tấm bảng khắc ghi tên họ của những người bản xứ đã chết cho nước Pháp và nơi đó việc thờ cúng sẽ được tổ chức mỗi năm với sự phụ giúp của chính người An Nam”
 (to establish in France, and if possible in Indochina, one or several pagodas of memory, sort of Indochnese Pantheons, where tablets would be kept registering the names of the natives who died for France and where the funerary cult would be celebrated each year…with the help of Annamites themselves)
(Dịch lại từ tài liệu trên internet)
Chính nhờ chủ trương này mà ngôi Miễu Tử Trận của Thủ Dầu Một đã được thành hình vài năm sau đó.
Năm 1919, vua Khải Định hạ chiếu chỉ chính thức nhận ngôi đình Bà Lụa này để thờ người An Nam trên đất Pháp.

 

Sắc chỉ của vua Khải Định
Vào ngày 9 tháng 6 năm 1920, tổ chức trọng thể lễ khánh thành ngôi đền với sự tham dự của nhiều quan chức cao cấp Pháp như Albert Sarraut, Maréchal Joffre...

 

Lễ khánh thành đền tử sĩ

Vào ngày thứ hai, 26 tháng 5 năm 1922, vua Khải Định, con trai là Hoàng Tử Bảo Đại, cùng với quan Thượng thư Thuộc địa Albert Sarraut (chữ dùng theo Phạm Quỳnh) đến thăm ngôi đền khi nhà vua lần đầu tiên công du sang Pháp. Ông Phạm Quỳnh có ghi lại trong nhật ký của mình sự kiện đó.
“Thứ hai, 26 tháng 6 năm 1922
Hôm nay Hoàng thượng cùng quan Sauraut đến thăm nghĩa sĩ tử ở Nogent sur Marne. Sẳn có ô tô, anh em cũng đánh bộ “gia két”, đội mũ “mơ long” chạy xe về Nogent xem lễ. Quan nguyên học chính Gourdon làm hội trưởng hội “Đông Pháp Kỷ Niệm” (Le Souvernir Indochinois), diễn thuyết chúc mừng, Hoàng thượng đáp lại mấy câu, chắc là những lời hùng biện cả, nhưng đứng xa chẳng nghe thấy chi hết. Xong rồi Hoàng thượng vào thắp hương trong đền, ra đặt vòng hoa sắt ở cái đài Kỷ niệm những chiến sĩ theo đạo Thiên Chúa ở ngoài vườn, dạo quanh vườn một lượt, rồi lên xe, vua quan trẩy về Paris hết.” .(3)
Điều vô cùng đáng tiếc là ngày 21 tháng 4 năm 1984, một trận hỏa hoạn, bị tình nghi là do hành động phá hoại, đã thiêu rụi ngôi đền. Người ta có cho xây dựng lại tại nền cũ một kiến trúc khác, có người gọi là phương đình, nhỏ và đơn sơ hơn trước nhiều. Vết tích cũ, nay chỉ còn lại cái nền và lối đi tam cấp có tạc hình rồng bằng đá. Tượng rồng này, có hình dáng và tư thế tương tự như hình rồng tại Miễu Tử Trận ở Bình Dương.

Đây chỉ là nói phớt qua vài nét chính, câu chuyện về số phận ngôi Đền Tử Sĩ trên đất Pháp với nhiều tình tiết thú vị sẽ được trình bày cặn kẽ trong một bài viết khác dài hơn.
Trở lại với ngôi Miễu Tử Trận ở Bình Dương, ngày nay là một công viên nho nhỏ với nhiều cây xanh, hồ nước. Dân địa phương chiều chiều ra ngồi hóng mát, hưởng những làn gió hiền hòa của thưở thanh bình, ít ai còn nhớ đến một dĩ vãng chiến tranh xa xăm trên quê hương điêu linh có quá nhiều mất mát và nước mắt..


CHÚ THÍCH:

1/ Nhiều tác giả, Dân ca Sông Bé, tr. 47, nxb. Tổng Hợp Sông Bé, 1991
2/Thích Huệ Thông, Sơ Thảo Phật Giáo Bình Dương, nxb. Mũi Cà Mau, 2000, tr.64,
3/Phạm Quỳnh, Hoàng đế Khải Định trước con mắt của thần dân Phạm Quỳnh
4/ Tài liệu tham khảo: Điạ phương chí 1975, tỉnh Bình Dương, Sở Học Chánh tỉnh Bình Dương.


Tác gia?: Hoàng Anh (ngày 10-03-2011)